Mắt thần là
con mắt thứ ba. Mắt này mà được khai mở hoặc giác ngộ thì thần thông vũ trụ,
thấu suốt được lòng người cả tim gan phèo phổi cõi sâu cõi nông theo ngôn ngữ
tâm lý bây giờ. Nhiều người thì chỉ coi đó là chuyện vui như một ao ước chẳng
bao giờ có được. Nhưng nhiều truyền thống vẫn tin rằng mắt thần có thực. Người
Ấn Độ thường vẽ con mắt thứ ba bằng một chấm đỏ trên trán ngay giữa hai mắt.
Mấy người khoa học bèn tìm cách thí nghiệm xem có phải do hai hạch Pituary ở
trán và Pineal trong óc không. Thôi thì cứ tha hồ mà đoán mò.
Nhưng có
điều chắc chắn là lịch sử đã ghi nhận có nhiều người đã thấy được cái mà nhiều
người khác không thấy bằng con mắt thịt.
BÙA PHÉP
TRONG TRẬT TỰ MỚI
Bước sang
ngàn năm thứ ba, người ta có dịp nhìn lại văn minh con người qua bao thời đại. Văn
minh từ nông nghiệp chuyển sang văn minh kỹ thuật của mấy thế kỷ qua đã đội mũ
triều thiên ưu thế cho các nước Âu Mỹ. Rồi sau trận chiến vùng Vịnh thắng Iraq,
hay nói khác hơn, là xóa được sức vùng dậy cuối cùng của văn minh Ả Rập đối
kháng với văn minh kỹ thuật Âu Mỹ, tổng thống Bush của nước Mỹ đã ngang nhiên
nói tới một trật tự mới. Và người ta bàn về trật tự vòng đai Thái Bình Dương,
mà Mỹ đương nhiên phải là “trung quốc”, là trọng tâm và tiêu chuẩn giá trị để
mọi “hành tinh” xoay quanh. Trật tự cũ của vòng đai nông nhiệp Địa Trung Hải
như Roma, Hy Lạp bên Âu, và “Trung” Quốc bên Đông cũng đã là “rốn vũ trụ”, nay
chỉ còn tìm thấy vết tích trong viện bảo tàng hoặc trong Tam Quốc diễn nghĩa do
Tử Vi Lang dịch thuật mà thôi.
Từ vòng đai
Địa Trung Hải văn minh nông nghiệp đã phải nhường bước cho văn minh cơ khí của
vòng đai Đại Tây Dương với Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa
Lan.... Nền văn minh này một thời cũng tự phong cho mình cái quyền chia nhau đi
bắt các nước Á Phi, Nam Mỹ quì dưới chân mà phục lạy ánh sáng phương Tây qua
chính sách thuộc địa, thì nay cũng đã bế mạc chương trình để theo đi tàu ngầm
với ông De Gaulle... Đám táng nền văn minh này được tổ chức trong một cảnh hữu
nghị “môi hở răng lạnh” của cái bàn chia chác trên một chiếc tàu hồi nào giữa
Rossevelt (rồi Truman), Stalin, và Churchill. Sau đó là chiến tranh lạnh, chiến
tranh được xếp đặt trước, hai phe phải khéo đóng kịch gầm gừ nhau làm như bom
nguyên tử sắp sửa tiêu hủy thế giới đến nơi, cho các đàn em sợ hãi mà đi vào khuôn
cho phải phép.
Và bây giờ
xem ra 8 anh nhà giầu tự phong chức cho nhau trong những lần hội nghị kinh tế
thượng đỉnh thế giới để chia chác kiểu mới: chỗ này phần mày, chỗ kia phần tao,
liệu mà biết điều với nhau. Có chụp hình lưu niệm, bắt tay ríu rít. Một số nước
Đông Nam Á “may mắn” được ở trong vòng đai kinh tế của trật tự mới Thái Bình
Dương như Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Hồng Công, đang hãnh diện biết uống
Coca, biết nhai kẹo cao su, và rủng rỉnh xu hào Mẽo. Việt Nam ta vốn tự hào là
con của bố rồng bự là Lạc Long Quân và bà tổ là Long Nữ, vậy mà vẫn chửa thấy
“trứng rồng lại nở ra rồng”. Bằng chứng là bây giờ người mình chỉ có một ước mơ
được trở thành một con rồng nhỏ theo đuôi mấy con rồng Á Đông kia mà hy vọng
vào được trật ự mới cũng không nổi.
Thì ra là
trong tật tự mới, đồng đô la đang là phép bùa có thể khai mở mọi thứ mắt. Thấy
đô la là mắt phải sáng lên. Trật tự mới mà cũng là tiêu chuẩn mới để đo mọi giá
trị. Đồng đô la mới là đỉnh cao trí tuệ trong trật tự mới. Có đô la mới có
quyền ăn nói, mới “mua tiên cũng được”. Vạn tuế đô la!
MÙI ĐU ĐỦ
XANH
Nhưng rồi xã
hội này đang phải trả giá. Những hồ hởi của nền văn minh vật chất đã đến hồi
mệt mỏi. Hiến chế của Công Đồng Vatican II về Giáo Hội trong thế giới ngày nay
đã nói tới vui mừng và hy vọng, nhưng đồng thời cũng nói trước về nỗi lo âu và
khắc khoải. Con người đang đánh mất hạnh phúc trong tầm tay để chạy theo ảo
ảnh, đang tự đuổi mình ra khỏi vườn địa đàng như Ađam và E-Và.
Nhiều nhà
văn hóa đang tìm những lối thoát mới. Sau những thành công của phim Hội Phúc
Lạc (The Joy Luck Club), Vườn Bí Mật (The Secret Garden), một phim khá nổi
tiếng do đạo diễn người Việt là Trần Anh Hùng được chiếu tại các rạp Mỹ. Đó là
phim Mùi Đu Đủ Xanh. Ong chủ nhà giàu trong phim là hình ảnh “ông cường quốc
kinh tế trong trật tự mới”. Ong đang đánh mất hạnh phúc, không bao giờ biết
cười. Có vợ con đầm ấm mà lại chỉ thích đi tìm niềm vui mãi đâu đâu. Mắt ông
tối lại, sống cô độc, và chết trong chán chường.
Trái lại,
Mùi là cô bé nhà nghèo phải đi ở đợ, thì có nụ cười lúc nào cũng tươi, mắt lúc
nào cũng sáng lên long lanh. Cô bé thích thú hút hồn nhìn ngắm sức sống từ cành
lá xanh cây đu đủ, từ động tác của con dế, từng giọt nắng mới, từng tiếng mưa
rơi hay tiếng kêu lách tách trong chảo nấu đồ ăn. Một cách nào đó, bé Mùi đã
được khai mở mắt thần, giống như thằng Bờm thấy được hạnh phúc đơn giản nơi nắm
xôi với cái quật mo, chứ không phải ba bò chín trâu như “trật tự mới” của phú
ông.
Thì ra trong
máu người Việt vốn đã có chất khai mở con mắt thứ ba rồi đấy. Hạnh phúc đâu có
quá phức tạp như thế giới loài người đang vất vả đi tìm. Bí quyết khai mở này
được tìm thấy nhan nhản trong Phúc Âm. Nước Trời, vườn địa đàng hạnh phúc thuôc
về những ai có con mắt như trẻ thơ, con mắt thứ ba được khai mở để thấy được
“nước Trời đang ở giữa”.
Và con người
đang chờ một nền văn minh mới để bước vào thiên kỷ mới, một nền văn minh có thể
khai mở mắt thần.
Thánh
Đoàn Công Quí làm chứng phép khai mở mắt thần
Đạo Công
Giáo là đạo của Tin Mừng, chỉ cho thấy con đường tìm thấy niềm vui hạnh phúc
trong cuộc sống. Nhưng trên thực tế người Công Giáo có tin gì thật mừng để tỏ
lộ ra được qua nếp sống thường ngày hơn những người ngoài Công Giáo
không?
Tử đạo theo
nguyên nghĩa là làm chứng, là tỏ lộ một điều gì thật mừng. Một người vừa trúng
số hay khám phá ra một kho tàng, thì nét mặt hân hoan. Một nghệ sĩ sáng tác thì
dồn hết tâm huyết vào tác phẩm mình, ánh mắt rực sáng bất kể phải hy sinh thời
giờ và sức lực. Những người này làm chứng bằng niềm vui thấy được cái mà người
khác không thấy.
Mắt thần
của Thánh Đoàn Công Quí
Mắt thần
chính là con mắt đức Tin. Con mắt này được khai mở thì thấy được Chúa đã
sống lại, đang hiện ra và hiện diện trong cuộc sống mọi ngày cho đến tận thế.
Và nơi nào có Chúa thì đó là nước Chúa, nơi đầy đủ mọi giàu sang hạnh phúc, vì
có Chúa chẳng còn thiếu thốn chi. Vì Chúa là Đấng toàn năng, là nguồn mọi ơn
phúc. Thầy đến để chúng con được sống, mà sống sung mãn (Gioan 10:10). Chỉ cần
mở con mắt đức tin là thấy đã có hết mọi sự. Chúa Giêsu đã mở đầu tin mừng bằng
lời công bố: Nước Trời đã ở gần bên. Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”.
Mẹ Maria đã
được khai mở con mắt này, nên Mẹ luôn đầy ơn phúc. Mẹ luôn thấy “Chúa đã làm
cho tôi muôn việc kỳ diệu”. Phúc cho Chị vì Chị đã tin.
Thánh Phêrô
Đoàn Công Quí là một nhạc sĩ và là một thi sĩ. Ngài đúng là một nghệ sĩ theo
nghĩa tích cực nhất. Ngài đã cảm nghiệm được tin mừng bằng con mắt đức tin,
thấy được Chúa trong bổn phận thường ngày, thấy được con đường đạt hạnh phúc
trong ngay cả những gian nan khốn khổ. Trước khi bị chém đầu tại pháp trường
vùng Châu Đốc , Ngài đã nói với giáo dân bằng chính lời Chúa:
“Anh em
hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước hết”.
Vì thấy được
Chúa luôn hiện diện và an bài, Thánh Đoàn Công Quí đã nhận ra những bước chân
của Chúa qua mọi chuyện xảy ra cho mình. Trong những lúc khó khăn, Ngài luôn
cầu nguyện để biết ý Chúa muốn xếp đặt thế nào cho mình.
Thấy tay
Chúa dẫn dắt xếp đặt
Thánh Phêrô
Đoàn Công Quí sinh năm 1826 tại họ Búng, tỉnh Bình Dương. Cha là Antôn Đoàn
Công Miêng và mẹ là Anê Nguyễn Thị Thường. Ngay từ nhỏ cậu Quí đã muốn đi tu,
nhưng cha mẹ thấy cậu thông minh và là con út nên giữ lại nhà mà chỉ cho người
anh đi tu thôi. Nhưng ý Chúa lại khác. Sau một thời gian, người anh tu không được
phải trở về, năm 1847 cha mẹ mới bằng lòng cho cậu Quí lúc đó đã 21 tuổi được
vào chủng viện thánh Giuse ở Thị Nghè. Và một năm sau thì Thầy Quí được gửi đi
du học tại đại chủng viện của Hội Thừa Sai Paris bên Penang, Mã
Lai.
Sau 7 năm du
học triết học và thần học, Thầy Quí trở về nước năm 1855, giữa lúc cuộc bắt đạo
của vua Tự Đức đến lúc gay gắt cao độ nhất. Nhà vua ra sắc dụ phân tán mọi gia
đình Công Giáo, phá hủy các nhà thờ và cơ sở tôn giáo, lùng bắt các linh mục.
Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, Thầy Quí vẫn nhận lệnh Đức Cha đi giúp giữ
vững tinh thần và dạy giáo lý tại các họ đạo. Thầy có biệt tài về ca nhạc, sáng
tác nhiều bài hát đạo và thích hát những bài về Đức Mẹ. Về sau trong lớp cháu
chắt của Ngài có cha Phaolô Đoàn Đạt cũng rất giỏi nhạc.
Và sau 3 năm
giúp xứ, tháng 9 năm 1858 Đức Cha đã truyền chức linh mục cho Ngài tại nhà thờ
Thủ Đầu Một, lúc đó Ngài được 32 tuổi. Sau một thời gian phục vụ tại các Họ Lái
Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, Cha Quí được bổ nhiệm làm phó xứ Cái Mơn tỉnh Vĩnh
Long. Chỉ sau ba tháng về Cái Mơn, Cha đã bị truy lùng. Quân quan đã bao vây
dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn ngày 10 tháng 12 năm đó để khai thác chỗ các cha
trốn ẩn. Nghe tin các nữ tu bị bắt, Cha Quí muốn nộp mình để lính tha cho các
chị. Cha đã viết thư lãnh ý bề trên nơi cha chính Borelle Hòa:
“Thưa cha,
thật con đang ở giữa những nguy hiểm, nhưng Chúa đã giữ gìn chưa để con bị bắt,
vì tội lỗi con còn nhiều chưa được phúc chịu khổ vì Chúa. Oi ngày xưa Chúa Cứu
Thế đã phải chết treo trên Thánh Giá, con thật chưa xứng đáng. Con mong ước
được đến nhà tù để khuyến khích các người xưng đức tin. Khi nào cha mới cho
phép con làm điều đó?”
Cha Chính
Hòa đã không cho phép làm như thế, và Ngài đã tuân theo vì nhận ra ý Chúa qua ý
bề trên. Từ đó Cha phải cải trang làm thường dân, đi thăm mục vụ và cử hành bí
tích cách âm thầm.
Đức Tin làm
được phép lạ: xiềng xích thành vòng đeo quí giá
Niềm tin mọc
cánh chim Âu
Lòng đầy
thần lực tuôn trào suối thiêng.
Đức tin có
thể chuyển núi rời non. Con mắt đức tin của Ngài đã thấy được phúc lành nơi cái
chết vì Chúa, và thấy mọi đau khổ được biến đổi trong cái nhìn mới như có lần
Ngài đã bày tỏ:
“Chớ thì tôi
không được diễm phúc chiến đấu và chết vì danh Chúa sao. Ước gì xích xiềng trở
thành những vòng đeo quí giá, gông cùm thành vòng đeo tay. Hãy xem bao nhiêu
bạn hữu đã được ngành lá chiến thắng, còn tôi như người lính canh bị quên bỏ.
Oi lạy Chúa, xin ban phúc tử đạo cho con”.
Ngày 27
tháng 12 năm 1858, Cha Quí được lệnh đi làm cha sở họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng,
tỉnh An Giang, nơi có ông Lê Văn Phụng làm trùm trưởng đang hết mình dấn thân
cho Hội Thánh qua cho họ đạo. Nhờ vị thế Họ Đầu Nước nằm trong một cù lao ngăn
cách bằng những con sông lớn, nên dù trong thời kỳ bắt đạo khủng khiếp như vậy
mà ông Lê Văn Phụng vẫn khôn khéo xếp đặt và tiếp tục xây nhà thờ, nhà xứ, nhà
dòng, dạy giáo lý, đào hầm cho các linh mục trốn ẩn ngay trong nhà mình để lo
thánh lễ và các bí tích cho giáo dân. Nhưng rồi những hoạt động này cũng khó
thoát khỏi sự dòm ngó của các quan. Tin đồn có các linh mục trốn ẩn ở Cù Lao
Giêng được nhiều người biết. Nghe vậy, cha chính Borelle Hòa liền nhắn Cha Quí
tạm thời trốn đi khỏi xứ. Nhưng Cha Quí cảm thấy trách nhiệm chủ chiên và sự
hiện diện của mình giữa đoàn chiên trong cơn giông bão thật là cần thiết. Tuy
nhiên Cha vẫn lắng nghe ý Chúa qua ý bề trên, nên Ngài đã trả lời:
“Nếu bề trên
muốn tôi trốn khỏi đây thì tôi xin Ngài viết cho tôi bài sai chính thức. Nếu
không tôi sẽ ở lại xứ.”
Cha Borelle
Hòa liền lãnh ý Đức Cha và sai đem hai chiếc thuyền đến đưa cha Quí về nhà
chung để tránh cuộc lùng bắt có thể xảy ra.
Xin ban
phúc tử đạo cho con
Nhưng ý Chúa
đã xếp đặt khác. Lòng ước ao được chết vì Chúa đã được Ngài diễn tả qua những
lời cầu nguyện. Ngài đã viết lời cầu xin này bằng dấu nhạc: “Lạy Chúa, xin ban
phúc tử đạo cho con”. Lời cầu nguyện nay được Chúa thực hiện. Vì chính
những hoạt động kéo dài mà vào ngày 7 tháng 1 năm 1859 quan đã sai 100
lính đến bao vây nhà ông Phụng. Hôm đó Cha Quí mới về nhận sở Cù Lao Giêng được
đúng 10 ngày. Khi lính đến gần làng thì giáo hữu liến cấp báo cho gia đình ông
Phụng. Nghe tin này, cha Pernot Định đã đề nghị với Cha Quí cùng đi trốn, nhưng
cha Quí bình tĩnh trả lời:
“Tôi là
người bản xứ chắc quan quân khó nhận ra, cha cứ đi trước, tôi ở lại thu dọn đồ
lễ để khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và giáo họ, rồi sẽ theo sau”.
Vậy là sau
khi Cha Pernot Định vừa trốn khỏi nhà thì quan quân ập tới bắt ông Phụng phải
nộp đạo trưởng ngoại quốc như đã được mật báo. Ong Phụng trả lời rằng không có
đạo trưởng nguời Tây nào ở đây cả. Đang khi lính định tra tấn ông Phụng thì Cha
Quí đứng ra nhận:
“Ở đây chỉ
có tôi là đạo trưởng, ai muốn theo đạo tôi sẵn sàng chỉ dạy”.
Thế là lính
liền trói Cha Quí, ông Phụng và 32 giáo hữu giải về Châu Đốc.
Trước mặt
quan tỉnh Châu Đốc, Cha Quí một mực xưng mình là đạo trưởng:
“Làm sao tôi
có thể bỏ đạo trong khi tôi dạy bảo người khác. Nếu quan thương thì tôi được
nhờ, bằng quan muốn kết án thì tôi sẵn sàng, còn chối bỏ Thiên Chúa thì không
bao giờ”.
Phép khai
mở mắt thần
Trong 7
tháng bị giam trong tù, Cha Quí luôn sốt sắng cầu nguyện, ăn chay, đọc kinh lần
chuỗi chung với các bổn đạo, và khích lệ các bạn tù và những người đến thăm. Vì
chính nhờ cầu nguyện mà Thánh Đoàn Công Quí đã “luyện được phép” khai mở mắt
thần, tức là mắt đức tin. Ngày nay ai đến thăm Hội Thừa Sai Paris đều để ý
trong Phòng Các Vị Tử Đạo, một cuốn sách nguyện của Thánh Đoàn Công Quí được
đặt trong một hộp kính bên cạnh nhiều di tích quí báu của Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam.
Đi tìm đường
tu đức Việt, tìm vết chân trên con đường khai mở mắt thần, người ta lấy làm
kinh ngạc trước một phương pháp khai mở mắt thần, xem ra quá đơn sơ và thông
thường, nhưng lại là cốt lõi của mọi đường tu đức: đó là phép bí tích và kinh
nguyện qua cuốn sách nguyện đã được in dấu đậm hằng ngày do bàn tay và hơi thở
của Thánh Đoàn Công Quí. Cũng chính vì xác tín sức mạnh của bí tích và kinh
nguyện, trước khi bị xử tử, Cha Thánh Đoàn Công Quí đã khuyên chú Tam con ông
Phụng:
“Con hãy
siêng năn đến tòa giải tội, đừng quên đọc kinh, cũng đừng phạm tội để linh hồn
con được mạnh mẽ”.
Thấy được
tình Chúa qua tình mẹ
Trong những
ngày tù khổ cực, Cha Quí luôn tưởng nhớ và cầu nguyện cho người mẹ đã già ở họ
Búng. Có lần cha Quí đã gửi thư cho mẹ bằng một bài thơ rất cảm động diễn tả
tình mẹ con thắm thiết, và cũng là dịp nói với mẹ về niềm trung thành và tin
cậy nơi Chúa, con mắt đức tin thấy Chúa qua mọi thử thách.
Gửi về mẹ
đôi dòng chữ thông tri
Kể từ ngày
con vâng lệnh ra đi
Lòng lã chã
lệ rơi buồn lụy
Ngỡ tới đây
hành công biện sự
Một hai
tháng về viếng từ thân
Ai ngờ rầy
sớm tách lìa phân
Trời cùng
đất không còn xum họp.
Hễ đạo làm
tôi đua giữ lời răn dạy.
Cho nên con
vâng lệnh chỉ sai
Đường xa xôi
cách trở lại chi nài.
Miễn đặng
tiếng vâng lời chịu lụy.
Khi con tới
An Giang tạm nghỉ
Gặp chân
trời gặp hội khoa thi
Nên con phải
liều công ứng cử.
Ay là Thiên
Chúa cứ sổ ghi
Người tuân
theo tất được hoan hỉ
Dầu trăng
trói gông cùm tù rạc
Chén ngục
hình xiềng xích chi nề
Miễn vui
lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo
trung thần hiếu tử
Chí con dốc
đền công ơn Chúa
Dạ con làm
báo hiếu mẹ cha
Con xin mẹ
chớ chút phiền hà
Một cam chịu
cho danh Cha cả sáng.
Trúng
Chúa
Cha Đoàn
Công Quí đã cảm nhận được Tin Mừng và trúng Chúa như trúng độc đắc. Không có gì
có thể lay chuyển so với vinh quang nước trời, vì “nước Trời giống như một kho
tàng chôn giấu trong một thửa ruộng; có người khám phá ra liền vội vùi lại, rồi
về bán tất cả mọi sự mình có mà mua lấy thuở tuộng ấy” (Mt 13:44).
Một hình ảnh
thật cao đẹp: một người chủ chiên và một người trùm trưởng của Họ Đạo Cù Lao
Giêng cùng hân hoan tiến ra pháp trường lãnh triều thiên tử đạo. Hôm đó là ngày
ngày 31 tháng 7 năm 1859. Cha Quí cầm tượng Đức Mẹ trong tay, ngực đeo hài cốt
tử đạo. Ngài nói với ông Lê Văn Phụng:
“Đây là
giờ Thiên Chúa ấn định cho cuộc chiến đấu cuối cùng, chúng ta hãy can đảm chịu
đựng vì Chúa”.
Đoàn lính
cầm gươm dẫn hai vị anh hùng tử đạo ra pháp trường Chà Và. Và lời cuối cùng
Ngài trối cho giáo dân trước khi bị chém đầu:
“Anh em
hãy tìm nước Chúa trước hết, hãy tránh xa các tật xấu và hãy tập luyện nhân
đức”.
Thánh Quí tử
đạo năm 33 tuổi, cùng tuổi với Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế. Xác Ngài về
sau được đưa về táng tại Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, cùng với Thánh Lê
Văn Phụng như lời trối. Cha sở và vị trùm trưởng cùng hoạt động xây dựng nước
Chúa trong Họ Đạo, cùng bị bắt và tử đạo một ngày, và nay cùng được an táng bên
nhau. Thật là một hình ảnh cảm động.
Tác
giả Trần Cao Tường, Lm.