·
Linh mục JEAN-CLAUDE
PERNOT (Xem tài liệu của MEP)
·
Sinh ngày:
17/11/1823
·
Cha là Claude
Francois, làm nghề thợ may.
·
Mẹ là: Anne
Pinaigre, nội trợ
·
Mùa thu 1839 (15
tuổi) vào tiểu chủng viện Luxeuil.
·
Năm 1841, vào học
Triết ở chủng viện Vesoul
·
Năm
1843, học thần học ở Besancon
·
Ngày 18/09/1847
(lúc 24 tuổi), thụ phong linh mục.
·
Ngày 03/09/1851
(28 tuổi) vào Hội Truyền Giáo Paris.
·
Ngày 04/09/1852
đi Viễn Đông từ cảng Havre
·
Ngày 26/10/1852
đến Pinăng ( Malaysia )
·
ĐGM Lefèbvre Ngãi
thuê tàu chở Cha đến nước Việt. Hơn 1 tháng thì đến Đồng Nai. Sau đó đi thuyền
đến Thị Nghè.
·
1853 – 1854 : Ở
Thị Nghè
Sau đó, được sai đến Đầu Nước ở Cù Lao Giêng.
Cha Pernot ở tại nhà của ông Emmanuel Lê Văn Phụng. Họ Đầu Nước được thành lập
năm 1783 do 2 gia đình Cai Thia ?- Ông Phụng với tính năng hăng say và nhiệt
thành tông đồ, dạy giáo dân, nâng đỡ họ, cố gắng giúp họ về đạo giáo, dù gặp
nguy hại, nhất là khi họ đau ốm và sắp chết. Cha Pernot ở đây cho tới
1859.
Cha ở trong một nhà nhỏ, nấp trong góc kín
của ngôi nhà. Ban ngày phải ẩn mình, cha chỉ đi ra ban đêm. Ở đó cha cử
hành các Bí Tích cho giáo dân mà ông Phụng kín đáo đưa đến. Ban ngày đôi khi
Cha phải im lặng và ở yên vì các người lương do thám đến lục soát phía bên kia vách
nhà của Ngài. Nhiều lần cha phải lật đật chạy trốn trong chỗ rậm gần đó,
chân ở trong đầm nước và muỗi căn khủng khiếp. Khi nguy hiểm qua rồi, người ta
đến tìm cha về.
Dù rất cẩn thận, nhưng họ cũng nghi ngờ có
người Âu. Hai người lương ở làng Tân Đức ở Cù Lao Giêng, quyết tâm bắt quả
tang. Một đêm nọ, họ trèo lên cây măng sau nhà ông Phụng, và cha Pernot, không
biết có nguy hiểm đã đi ra để thở không khí trong lành. Ngay lập tức họ nhận ra
Ngài. Họ đi tố cáo với Tổng Đốc Châu Đốc. Ông gọi trưởng đội dân quân, ra lệnh
chuẩn bị khoảng 20 chiếc thuyền để đến Cù Lao Giêng. Nhưng người ta biết ngay
lý do có cuộc sắp đặt đó và một giáo dân vội vàng báo tin cho ông Phụng. Ông
Phụng lúc đầu không tin lời người này, ông nói: “Không thể có chuyện đó, ông
Huyện Cù Lao Giêng rất tốt với tôi, đáng lẽ nói cho tôi biết chứ”. Tuy
nhiên, các chiếc thuyền dân quân đã đến chọ Cho Thu (?), cách Đầu Nước 6 km.
Rồi thuyền chạy chậm để đến đêm thì đến nhà ông Phụng, được báo là cất giấu một
người Tây.
Việc xuất hiện đội thuyền làm cho giáo dân
trong lang xôn xao. Một giáo dân đến nhà ông Phụng. Không còn nghi ngờ gì nữa,
vì có tiếng mái chèo đập nước nghe rất rõ. Vội vàng, hối hả người ta cất giấu
đồ đạc gây nghi ngờ, và che giấu cha Pernot. Dưới sự hướng dẫn của ông Gabrie Vi,
cha chạy trốn trong rừng rậm và cũng khuyên cha Quí trốn đi nhưng vị linh mục
bản xứ trả lời: “Cha ơi, cha trốn nhanh đi, còn con, con là người An nam, con
sẽ không gặp khó khăn gì đâu”. Sau một lúc, quân lính bao vây nhà ông Phụng, và
siết chặt vòng vây để không ai có thể chạy thoát. Họ tìm kiếm khắp nơi, lục
soát các góc xó nhà tăm tối, nhưng vô ích, tuyệt đối không tìm thấy gì cả. Cha
Pernot đã đi kịp lúc, các đồ lễ cũng rời xa đó rồi. Ông trưởng đội quân giận
dữ, bắt giữ ông Phung, chủ nhà, muốn ông thú nhận là ông có che giấu một nhà
truyền giáo. Nhưng ông Phụng từ chối nói ra và không chỉ bảo gì cả. Giận điên
tiết, ông trưởng đội quân ra lệnh bắt trói và đóng gông Cha P.Quí, ông E. Phụng
và 32 bổn đạo ở đó. Rồi dẫn họ về phủ Châu Đốc. Đó là ngày 07/01/1859. Vài
tháng sau đó, Cha Quí và ông Phụng bị kết án tử và hành hình. Cha Quí bị chặt
đầu, ông Phụng bị siết cổ. Ngày 13/02/1879 (20 năm sau) hai vị tử đạo này được
ĐGH Lêô XIII phong Chân Phước.
Còn Cha Pernot lúc đó thế nào?. Suốt đêm,
Ngài trốn núp trong rừng. Sáng hôm sau, Ngài trở lại họ Đầu Nước, và tạm trú ở
nhà một giáo dân khác. Các bề trên nhận thấy cần đưa cha đi khỏi Họ đó, nên vị
thừa sai buộc phải trốn ở đáy thuyền và băng qua song, đến với các giáo dân ở
Ben Dinh (?) cách đó 25 cây số. Các giáo dân ở đây quá sợ hãi nên từ chối cho
cha ở. Có một phụ nữ can đảm, bà Anna Thoa, nói với chồng: “Đừng sợ gì cả,
chúng ta cứ cho cha ở nhà chúng ta”. Lúc đầu người chồng không đồng ý, nhưng
sau cùng với sự nài nỉ của bà vợ, ông đồng ý và don một cái chòi nhỏ ở trong
bụi tre gần nhà, bà Anna hằng ngày mang cơm nước đến cho cha. Ở đó chỉ được ba
ngày, Tổng Đốc Châu Đốc không muốn bỏ lơi con mồi nên ra lệnh lục xét khắp nơi.
Quan quân đến gần Bến Dinh rồi. Còn thời gian nên phải cứu vị thừa sai thôi.
Đầu óc dân An nam đầy mưu mẹo. Họ lấy một chiếc ghe chất đủ thứ lá: Tranh lợp
nhà, rơm làm vách, lá dừa làm cửa….Chiếc ghe chở người buôn lá trong một thời
gian ngắn đã xuôi dòng nước. Vị thừa sai Pernot đã ngòi trongmột cái lỗ mà
người ta bao quanh bằng đủ thứ lá. Lên bờ, đi đường bộ đến chợ gần đó, rồi đến
chợ kế tiếp, sau cùng cha đến Cái Nhum. Giáo dân ở đấy rất tốt, người lương
xung quanh cũng tốt và có thiện cảm. Họ đạo có dòng Mến Thánh Giá và có
một tiểu chủng viện của truyền giáo.
·
Đầu năm 1860, ở
Sài Gòn.
·
Năm 1861, về
chủng viện Hội Truyền Giáo ở Paris .
·
Ngày 27/02/1904,
qua đời ở Paris , thọ 81 tuổi.