THỜI KỲ HÌNH THÀNH (1875 - ĐẾN NAY )
(GIAI ĐOẠN 1886– 1901)
B. CHA SỞ
THỨ HAI: CHA GIUSE MARTINÔ NGUYỄN TRI THƠ (1886 – 1893)
-
Sinh năm 1848 tại Mỹ Hảo
- Chịu chức linh mục năm 1878
- Qua đời năm 1927
Cha
Thơ bắt đầu ký sổ rửa tội ngày 23/10/1886 đến ngày 18/02/1893.
Vậy Cha Giuse Thơ giúp họ đạo Búng được 7 năm.
Cha
Marrtin ghi lại như sau : Cha Thơ kế nhiệm Ngài (cha Antôn Võ), và lo
xây dựng nhà thờ mới. Phải nói rằng đây là NHÀ
THỜ THỨ SÁU cùng xây trên
một địa điểm như nhà thờ thứ năm (do cha Antôn xây). Có tài liệu nói
thêm : Nhà thờ này ông Trùm Tài vẽ mẫu Bằng khoán do cha Thơ đứng tên.
Theo thủ bút của cha Martin để lại : Vì không có vốn cần thiết (cho việc
xây cất) nên Ngài (Cha Thơ) chỉ làm nhà thờ từng phần, và đã khổ nhọc để lợp
xong mái nhà thờ trước khi rời nhiệm sở 7 năm sau đó. Giáo dân rất tích cực góp
công sức nhưng họ không giàu có gì. Lúc đó vài bất động sản của họ đạo
phải được bán đi để lo xây cất, nhưng cũng được một số tiền nhỏ nên cũng góp ít
chứ không nhiều vào công việc của họ đạo.
Nhờ
ơn Chúa và sự công tác của nhiều người NHÀ
THỜ THỨ SÁU này cũng đã
được xây dựng xong năm 1888. Ngày nay ở tiền đường nhà thờ có ghi dòng
chữ ‘AED. 1888 REST. 1953’ (nghĩa là đã được xây từ năm 1888 và được
tu sửa năm 1953).
Khi
Cha Thơ đi nhận nhiệm sở mới thì có hai cha tạm thay thế.
· Từ 14/03/1893, Cha Anrê Thể ký sổ rửa tội.
· Từ 31/07/1893 đến 13/11/1893, Cha Anrê Bửu ký sổ rửa tội.
C.CHA SỞ THỨ BA: CHA PHAOLÔ MARCEL SIMON(1893 – 1895)
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA CHA SIMON :
- Sinh ngày 14 hay 16/10/1844 ở Toulon sur Arroux
- Vào chủng viện các cha Thừa sai, 01/10/1866 (đã chịu chức cắt tóc).
- Chịu chức linh mục 19/12/1868
- 16/02/1869, đi đến Tây Đàng Trong (Sài Gòn) và làm giáo sư ở chủng viện Sài Gòn.
- 1871 – 1875 : Phục vụ ở họ Cái Bè
- 1875 – 1878 : Phục vụ ở họ Mặc Bắc
- 1879 – 1892 : Phục vụ ở họ Tây Ninh
- 1893 – 1895 : Phục vụ ở họ Búng (lúc 49 tuổi)
- 1896 : Phục vụ ở họ Vũng Tàu
- 1906 : Phục vụ ở Dầu Giây
- Ngày
10/12/1908 : Qua đời ở Sài Gòn, chôn gần mộ Đức Giám Mục Pierre Joseph
Georges Pigneau de Behaine (02/02/1741 – 09/10/1799),(Lăng Cha Cả) hưởng thọ 64 tuổi.
Cha
Simon xây nhà cha sở. Trước kia đã phục vụ ở Tây Ninh, nên cha đã mua
gỗ từ Tây Ninh về để xây cất. Tuy nhiên, các vách tường thì lại cho trét
bằng đất và rơm nên mối mọt làm ổ, chẳng bao lâu thì đầy nhà.
· Thời
đó các tên thánh rửa tội mà giáo dân truyền lại cho nhau không nhiều,
cha Simon đã làm một danh sách các thánh khác và gắn ngay trên giếng rửa
tội, để ai muốn chọn tên thánh nào cho đứa trẻ rửa tội thì tùy ý chọn.
· Khi tham dự nghi lễ phụng vụ, các thanh thiếu niên thường thụ động. Do đó, cha Simon buộc mỗi người phải mang theo sách mục lục.
Trong
bài tiễn đưa cha Simon qua đời có đoạn viết : Được gọi trông coi họ
Búng với số dân gần 1.500 người, cha bắt đầu việc mục vụ, đặc biệt quan
tâm đến giới trẻ và thiếu nhi rất đông trong họ.
Ở
Búng, cũng như trong các họ đạo mà cha phục vụ, cha không quên thực
hành nghề thuốc miễn phí (Nên biết : Cha đã học ngành y trước đó NV).
Nhất là cha rất tuyệt vời khi chăm sóc bệnh nhân một cách khéo léo, các
người đau đớn vì vết thương, tất cả các bệnh ngoài da, không một chút
ghê tởm, với một sự nhanh nhẹn trìu mến làm an tâm những ai sợ sệt. Cha
băng dán vết thương một cách nhẹ nhàng giống hệt y tá đầy kinh nghiệm.
Thật sung sướng khi mỗi sáng nhìn thấy những đám người lương và người
giáo dân đi tới cha và trở về được sự xoa dịu nhờ sự cứu chữa của cha,
được an ủi nhờ những lời ấm áp và động viên. Biết bao người lương đã nhờ
thế biết được Chúa Trời nhân hậu. Nếu phần đông họ không xin Rửa Tội
thì ít ra họ không thể không quý chuộng đạo này, mà các mục tử tỏ ra bác
ái và thông cảm những đau khổ của con người.
Cũng
vì vậy mà ĐGM Dépierre chọn cha Simon đi Vũng Tàu lập một dưỡng đường
để các thừa sai mỏi mệt và các bệnh nhân vừa khỏi bệnh có thể đến nghỉ
ngơi. Cha Simon đành rời xa Búng để đi nhiệm sở là Vũng Tàu vào năm
1896.
D. CHA SỞ THỨ TƯ : CHA FÉLIX FRISON (HOÀNG) (12/1895 – 1899) :
Ø Sinh ngày 21/01/1862 tại Argancy, giáo phận Metz
Ø 12/09/1882 gia nhập chủng viện thừa sai, chịu chức cắt tóc.
Ø 27/09/1885, chịu chức linh mục
Ø 02/12/1885 đi đến giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn)
Ø Năm
1888 – 1891 : Ở họ Tha La, cha Frison hướng dẫn, giúp phương tiện cho
giáo dân khai phá rừng để trồng trọt cày cấy. Cha đã mở mang nước Chúa
từ họ đạo Tha La đi đến thành lập họ đạo Rạch Gốc, Rạch Thiên.
Ø 12/1895 – 1899 : Cha sở họ Búng
Ø 1935 :
Cha mừng lễ vàng (Kim khánh) linh mục, đồng thời giáp 100 năm Thánh
Marchand Du tử đạo (20/11/1835) ĐGM Dumortier, 16 thừa sai và 37 linh
mục bản xứ tham dự. Tối hôm lễ mừng có cuộc bắn pháo bông lớn trước
10.000 người đến xem.
Sau
khi ở Mặc Bắc cha Frison được đổi về Thủ Dầu Một. Ngài xây nhà thờ Thủ,
là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Phú Cường. Phải mất nhiều năm và
tiền tài của gia đình Ngài, cộng với nhóm thợ ở Mặc Bắc xây dựng theo
mẫu nhà thờ Mặc Bắc. Nhà thờ này được làm phép và khánh thành ngày thứ
tư 23/07/1947
Ø 1939 – 1947 : Cha sở họ Thủ Dầu Một
Ø 29/06/1947 : Qua đời, hưởng thọ 85 tuổi
Sổ rửa tội lưu trữ tại Búng ghi cha Frison rửa tội và ký vào sổ từ ngày 12/12/1895 đến ngày 17/02/1900
Ở tại Búng cha đã tô phía bên trong nhà thờ và lát gạch bông ở cung Thánh. Mua một miếng đất cho họ đạo (cha Martin ghi)
Hiện nay họ đạo Búng còn 3 quả chuông, tiếng vang thánh thót là do công lao của cha Frison.
Ba quả chuông có ghi những dòng chữ như sau :
CHUÔNG 1 (tiếng trầm, to nhất)
Et Martha Lê Thị Đạo ejus sponsa (vợ của ông)
Me Obtulerunt (đã dâng cho tôi)
Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille
CHUÔNG 2 (tiếng trung, to vừa)
Uno corde et animo fideles
(Các giáo hữu chung một lòng và tâm hồn đã dâng cúng cho tôi)
Engène Baudouin, fondeur (thợ đúc) à Marseille
CHUÔNG 3 (tiếng thanh, nhỏ)
Me obtulit (đã dâng cho tôi)
Anno Domini 1896 (năm 1896)
Engène Baudouin, fondeur à Marseille
Trong kỷ yếu giáo phận Phú Cường (1965 – 2005), ‘Quả
chuông Tây, đường kính 0.70m hiện nay, do ông bà Micae Trần Văn Toán và
Maria Huỳnh Thị Mau dâng cúng, Họ Đạo Bình Sơn, 1897’. Engène Baudouin,
fondeur (thợ đúc) à Marseille’
Chắc
hẳn là do Cha sở lúc ấy là cha F.Frison đem từ Pháp về họ nhánh Bình
Sơn. Ngài vừa lắp xong 3 quả chuông thì được lệnh đi nhậm xứ Mặc Bắc
(1900). Trong khoảng 5 năm ở Búng, cha Frison cũng đã để lại tiếng vang
cho đến ngày nay (2007).
E. CHA SỞ THỨ NĂM : CHA NICOLAS EMILE COLSON (1900 – 1901)
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :
- Sinh ngày18/11/1846 ở Manoncourt-sur-seille
- 15/09/1868 gia nhập chủng viên Thừa Sai
- 25/05/1872 chịu chức linh mục
- 19/06/1872 đi đến Tây Đàng Trong (Sài Gòn)
- 1877 thư ký ĐGM Colombert
- 1878 nhậm xứ Cái Nhum
- Đau một vài năm sau đó coi xứ Tân Qui
- 1901 Cha sở Họ Đạo Búng
- 1903 – 1913 cha sở họ Chợ Lớn
- 19/07/1913 qua đời ở Sài Gòn, hưởng thọ 67 tuổi.
2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ :
Cha Martin ghi ít dòng sau đây về cha Colson ‘Cha
coi sóc họ đạo này chỉ trong vòng hai năm. Sau quay trở lại họ Tân Qui
mà trước đó Ngài đã ra đi với nhiều đau đớn’(Le P. Colson fut ensuite
chargé de cette paroisre òu il ne resta que deux ans, et tourna à Tân
Qui dòu il était sorti avectant de peine).
Như thế cha Colson ở Búng 2 năm, sau đó đến Tân Qui khoảng 1,2 năm trước khi nhậm xứ Chợ Lớn(1903 – 1913).
Cha Colson ký sổ rửa tội từ 15/03/1900 – 19/10/1901.