LỊCH SỬ HỌ BÚNG - Patriciô Nguyễn Văn Tiền (Biên Soạn) - Lịch sử Họ Đạo Búng 7


THỜI KỲ HÌNH THÀNH (1875 - 2007)

(GIAI ĐOẠN 1925 – 1963)

H.CHA SỞ THỨ TÁM: CHA ROBERT KELLER

(1925 – 1963)


1.    TIỂU SỬ:

Sau cha Anrê Miều là cha R.KELLER

Robert, Jacques KELLER sinh ngày 18 tháng 02 năm 1885 ở Soultz (Sulz) giáo phận Strasbourg, trong một gia đình công giáo đạo đức. Gia đình này đã dâng cho Hội Truyền Giáo Paris ba con trai là :Charles, Adolphe, và Robert.

Robert học tiểu học ở Soultz. Tháng 10/1899, Ngài bắt đầu học cấp hai ở học việc Thánh Maria, ở Belfort, và đã hoàn tất việc học ở đó vào tháng 07/1906.

Ngày 08/09/1906, Ngài vào chủng việc của Hội Truyền Giáo, ngày 20/09/1907, chịu chức cắt tóc. Ngày 27/09/1908, các chức nhỏ. Ngày 18/12/1909, chịu chức phụ phó tế. Ngày 12/03/1910 chịu chức phó tế. Ngày 24/09/1910, thụ phong linh mục (lúc 25 tuổi). Nhận nhiệm vụ ở Sài Gòn, Ngài đã đến vào ngày 11/12/1910. (sau 3 tháng lãnh chức linh mục).

Khi đến Đông Dương, Ngài gặp lại 2 người anh : Cha Charles, người anh cả đang làm việc trước đó một vài năm ở Cambốt. Còn cha Adolphe, anh kế thì trước đó 3 năm đã làm việc ở Sài Gòn. Người anh này đã bị sát hại ngày 02/01/1946 ở Cái Bè, và nơi này cha Adolphe đã xây một nhà thờ đẹp nhất Nam Kỳ.

Cha Charles Keller sinh ngày 03/10/1876, thụ phong linh mục ngày 24/06/1900, đi Cambốt ngày 25/07/1900. Năm 1902, về Cô co, Sóc Trăng. Năm 1921, quản trị Sóc Trăng, qua đời tại Sóc Trăng ngày 22/10/1953, thọ 77 tuổi.

Cha Adolphe Keller sinh ngày 24/12/1877, thụ phong linh mục ngày 22/06/1902, đến Việt Nam 30/07/1902. Sau khi học tiếng Việt, cha được nhận nhiệm sở Cái Bè. Năm 1930, bắt đầu xây nhà thờ. Ngày 24/12/1945 bị bắt dẫn đến đồng trồng cây cói và 2 tuần sau đó, bị sát hại ngày 02/01/1946, thọ 69 tuổi.

- Đức Giám Mục Mossard đưa nhà truyền giáo R.Keller đến Cái Mơn, họ đạo này có hơn 5000 tín hữu , để Ngài học tiếng Việt, và làm quen với phong tục tập quán xứ sở. Cha Robert đã sống ở đó năm 1911 và 1912.

- Năm 1912 – 1913 Ngài ở Phú Hiệp gần Cái Mơn

- Năm 1913 – 1914 Ngài đi đến Cấp St.Jacques (Vũng Tàu).

- Năm 1914 – 1916 Ngài phục vụ Cau – Ngan

- 1916 – 1919 Ngài phục vụ Mai Phốp, gần Bãi San.

- Năm 1919 – 1922 Ngài ở Cái Bè

Năm 1921 lúc 36 tuổi Ngài bị đau nặng, và đầu năm 1922 Ngài buộc phải trở về nước Pháp và ở đó hai năm. Ngày 31/12/1924, khi trở lại xứ truyền giáo, Ngài được chọn làm cha quản hạt và là cha sở họ Búng, lúc đó Ngài 39 tuổi. Họ đạo Búng là một họ tốt với 2000 tín hữu, cách Sài Gòn 24 km và Ngài ở lại Búng cho đến chết ngày 17/06/1963, thọ 78 tuổi.

2.    CÔNG VIỆC MỤC VỤ:

a. THEO SỔ RỬA TỘI CÒN LƯU TẠI HỌ BÚNG

Cha Anrê Miều rửa tội cho Tôma Nguyễn Văn Đỏ ngày 17/02/1925. Cha Robert Keller bắt đầu rửa tội cho Anrê Nguyễn Văn Sáu ngày 28/02/1925.

Vậy cha R.Keller đã ở Búng từ tháng 02/1925 đến 07/06/1963 (38 năm)

b. CHA R. KELLER XÂY CẤT RẤT NHIỀU

+ Nhà thờ Bến Sắn bị hư hại trong thế chiến thứ hai.

+ Nhà thờ Bà Trà xây cất năm 1941, nay (2007) vẫn còn


Nhà thờ Bà Trà

+ Nhà thờ Long Cầu, bị sập trong chiến tranh

+ Nhà thờ Bố Mua (Vĩnh Hòa)

+ Tháp nhà thờ Bình Sơn


+ Nhà thờ Búng đã được xây từ năm 1888.

Đến năm 1953, cha R. Keller cho sửa lại: Bỏ 2 hiên có mái lợp chung quanh nhà thờ, thay kính màu ở cửa sổ, làm trần nhà thờ bằng gỗ Bời Lời, gỗ Sao từ Bến Sắn đem về, và tô bên ngoài các lối đi ở giữa và bên nam nữ được lót gạch bông, ba bàn thờ trong nhà thờ được sửa chữa lại hoàn toàn.

Ngày 04/09/2005, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt, sứ thần Tòa Thánh tại Cộng Hòa Trung Phi và Tchad đã cung hiến nhà thờ và bàn thờ giáo xứ Búng.

+ Tháp nhà thờ Búng là công trình được xây cất năm 1956 kiểu tháp được sao chép lại tháp chuông ở nhà thờ Cái Bè, nơi người anh của Ngài là cha Adolphe Keller đã phục vụ.

Toàn họ đạo kẻ của người công, chung sức làm việc, dưới sự chỉ huy của ông Phêrô Nguyễn Văn Vui (1902 – 1969)(Cha của ông Sướng, Sáng (Lung), các dì Sáu, Vân, Tùng, ông nội của Linh mục Giuse Nguyễn Công Danh , giáo phận Đà Lạt,). Tháp này cao 42 mét.

Trước đó tháp chuông bằng cây được dựng ở đất đài Thánh Quí bây giờ. Khi tháp xây xong, thì đưa 3 quả chuông về tháp mới ngày lễ Đức Giêsu là Vua (theo lời một thợ xây tháp kể lại). Khi xây tháp, Ông Phêrô Nguyễn Văn Chấn (hai Chấn, nhà ở trước nhà thờ) là thợ đang ở trên cao (khoảng 20 mét) ngồi trên tấm ván để cột kẽm thì một cái ky hồ rớt trúng xuống, ông bật ngữa ra sau, và may thay có một cái cây ở sau lưng chịu ông lại….và sau đó ông trèo xuống đất!.

+ Đài Thánh Quí:


Sau những tháng xây cất thì dựng tượng Thánh Quí. Tượng Thánh Quí được xe cẩu đưa lên theo chiều thẳng đứng và để ngay trên bệ xây sẵn. Phía sau lưng bức tượng có một khoảng trống, để các thợ hồ đem gạch thẻ chất vào trong bức tượng.

Ngày 17/02/1960, Đức Giám Mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, ở Sài Gòn đã làm phép tượng Thánh Phêrô Đoàn Công Quí, có đông các linh mục và giáo dân đến dự lễ tôn vinh Thánh Quí, người linh mục đầu tiên của họ đạo Búng đã anh dũng hi sinh (1826 – 31/07/1859).

+ Hang núi Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes):


Cũng do cha R. Keller xây cất nhưng không rõ năm nào.

+ Nhà các dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm :

Theo tài liệu của hội Dòng, khi nói về ‘BÚNG’ có ghi như sau : ‘Trong khoảng thời gian cha R. Keller coi sóc họ đạo Búng, đã có rất nhiều chị em luân phiên nhau đến cộng đoàn Búng phục vụ….Chính cha đã giúp xây ngôi nhà gạch, mái ngói mà các chị đang ở hiện nay.’

Lưu ý : Mái lợp ngói móc, gạch thẻ xây tường dầy 20 cm, nhà cao ráo, rất mát mẻ. Ngày 13/07/2006 Hội Dòng đã cất một ngôi nhà khác hiện đại hơn, thay cho ngôi nhà do cha Keller cho xây..

c. CÔNG VIỆC KHÁC :

Bên hông nhà thờ Búng trước năm 1945 có một ngôi nhà làm mủ cao su. Nhà  này bị đốt cháy vào năm 1946, nay không còn.

Cha R. Keller đã trồng xung quanh nhà thờ nhưng cây sao. Đến nay (2007) còn lác đác một vài cây.

Đất đai nhà thờ cũng nhiều. Cha cho giáo dân ở để qui tụ họ lại dễ dàng cho công việc mục vụ. Sát cạnh nhà thờ, ở mỗi bên cũng có ba nhà giáo dân ở.

d. ĐÀO TẠO CON NGƯỜI :

Đào tạo thiếu nhi :
+ Việc đạo đức

Các thiếu nhi trong họ đạo phải học giáo lý Rước Lễ lần đầu, Thêm Sức và Bao Đồng. Việc này do các dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm phụ trách.

Mỗi ngày chỉ có một thánh lễ vào buổi sáng, nên các học trò từ lớp năm đến lớp nhất (bây giờ từ lớp một đến lớp năm) sau khi tan học ban chiều thì vào nhà thờ đọc kinh, viếng thánh thể.

Các thiếu nhi trong thời kỳ này siêng năng dự lễ, nhờ các dì khuyên bảo và hướng dẫn là chính yếu.

+ Việc học vấn :

Có hai ngôi trường :

Một gần nhà các dì, một ở gần nhà cha sở. Các con em trong họ đạo được dạy học cấp tiểu học từ lớp năm đến lớp nhất. Các dì rất nhiệt thành lo cho các em. Theo thống kê của hội dòng, 38 năm cha sở Keller ở họ Búng. Hội Dòng đã gửi 87 dì và cô của hội dòng đến đây, để dạy đạo và dạy học.

Đào tạo ơn kêu gọi :

Họ đạo có truyền thống đạo đức tốt, do được các dì hướng dẫn từ nhỏ, nên có nhiều ơn gọi trong số các thiếu nhi nam cũng như nữ.

Nói riêng về các linh mục được thụ phong trong thời cha R. Keller là 12 linh mục và sau khi cha Keller mất thì lại trổ hoa linh mục thêm 5 người nữa.

Về số nữ tu, có lẽ cũng trên 100 người.

3.    CÁC CHA PHÓ (THỜI CHA KELLER)

Có tất cả 9 cha phó giúp cha Keller để phục vụ họ đạo :

1) Cha Gioan Baotixita Dưỡng     (1929 – 1930)

2) Cha Carôlô Nhơn    (1930 – 1934)

3) Cha Tôma Trí (1934 – 1935)

4) Cha Giuse Công (1935 – 1938)

5) Cha Phêrô Cầu   (1939 – 1943)

6) Cha Matthêu Luật    (1943 – 1946)

7) Cha Phêrô Thì    (1946 – 1951)

8) Cha Giuse Kinh    (1951 – 1952)

9) Cha Tôma Sum   (1952 – 1963)

Vì không có tài liệu nên chỉ ghi những gì giáo dân kể lại.

a.    ĐỜI CHA G.B DƯỠNG (1929 – 1930)

Ngày 19/12/1929 ĐGM Dumortier đến họ đạo để ban bí tích Thêm Sức cho 174 con em. Họ đạo tổ chức đón rước Đức Giám Mục. Ngài đi bộ khảo giáo lý các thiếu nhi. Ông Út Hiếu kể lại :

Các em đứng đón Đức Cha ở ngã ba Đất Thánh (bây giờ là ngã tư Bà Lè), Đức Cha đi bộ khảo giáo lý.

Đức Cha hỏi một em : ‘Đức Thánh Phapha (Đức Giáo Hoàng) ở đâu’ ?. Em đó thưa : ‘Dạ thưa ở nhà tạm’

Lúc đó cha phó G.B Dưỡng đi phía sau Đức Cha và cha sở Keller cố gắng nhắc nhở các em.

Sau đó Đức Cha ra viếng họ Bình Sơn. Cha Tuần, cha Phương có bài mừng Đức Cha, cha sở Keller, cha phó G.B Dưỡng.

Bài cám ơn của họ đạo nhân dịp này được ông Út Hiếu ghi lại như sau :

Nay hiệp nhau trẻ già lớn nhỏ

Tặng đôi lời cúi tỏ cảm ơn

Công Đức Cha biết lấy chi đền

Nguyện Chúa cả thường sinh xuống phước

Sau dâng kính chúc mừng cha sở

Trước quới chức cùng là bổn đạo

Để trong lòng tích nhớ muôn đời…

Sau dâng kính chúc mừng cha phó

Mấy tháng nay công khó ra vào

Lời cha giảng dường bằng lửa đốt

Đốt lòng con nên thánh nên người….

b.    ĐỜI CHA MATTHÊU LUẬT (1943 – 1946)

Năm  1943, Cha tổ chức diễn tuồng giáng sinh. Cha cùng với ông ba Thượng ( ba của bà Hoa, ông Phẩm, Trực, Trung, và Thạnh) lập ra ban hát nam. Cha cùng với ông Ba lập ra đội banh của họ đạo, khiến cho họ đạo vang tiếng một thời về việc này.

Hiện nay, ca đoàn họ đạo còn hát bài DÂNG LÒNG do cha sáng tác để tôn kính Thánh Tâm, bổn mạng của họ đạo. Bài hát có 3 bè : Soprano, Alto và Basso, cung Đô trưởng và chuyển cung Đô thứ ở giữa bài. Bài  này hay, cảm động, là đặc sản của ca đoàn Búng.

c.    ĐỜI CHA PHÊRÔ THÌ (1946 – 1951)

Thường xuyên tổ chức rước kiệu Đức Mẹ. Dịp lễ Giáng Sinh, thường có kiệu Chúa Hài Đồng. Cha Phêrô thích bắn chim, ghét đánh bài. Có lần cha gặp một người trai tráng Công Giáo đang chơi bài, Ngài đã ‘phết’ cho máy roi.

+ Về kịch nghệ

Cha Phêrô với sự cộng tác của ông Năm Qua (gọi là thầy Năm Qua, em của ông Hai Chính, cha Từng (Tuần) ông Tư Ngự) đã cho ra mắt các vở tuồng sau :

- Tết 1949 diễn tuồng : Quan Thành Đức (tập 1), Lão Hà Tiện

- Tết 1950 diễn tuồng : Quan Thành Đức (tập 2) Sébastianô tử đạo, Gỡ mặt nạ người phi nghĩa.

- Tết 1951 : Utakiô, Vitô tử đạo

- Tết 1952 : Thánh Alêxù , Lão triệu phú

Đoàn kịch có những chuyến đi diễn : 1950  ở Lái Thiêu, 1952 đi diễn ở Bà Chiểu. Thầy Năm Qua cũng qui tụ thanh niên, lập ra đội kèn đồng với khoảng 10 nhạc công.

d.    ĐỜI CHA TÔMA NGUYỄN VĂN SUM (1952 – 1963)

1) TIỂU SỬ :

Sinh năm 1925 trong gia đình có 5 người con: 4 gái (là chị) và 1 trai (cha Tôma, con trai út, duy nhất)

- Thụ phong linh mục ngày 29/03 1952

- Làm cha phó ở Búng từ 1952 – 1963. một giáo dân kể rằng khi cha đến Búng, chỉ xách có túi đồ, đi bộ vào mà không ai biết.

- Cha sở Dầu Giây 1963 – 1968

- Cha sở Biên Hòa 1968 – 1998

- Về hưu 1998 – 2006

- Qua đời tại Biên Hòa, thứ Ba 24/10/2006, hưởng thọ 81 tuổi.

Lễ tang của Ngài có 2 Giám Mục là Đaminh Nguyễn Chu Trinh- GM Xuân Lộc, và GM Tôma Nguyễn Văn Trâm – GM Bà Rịa – Vũng Tàu, và trên 100 cha đồng tế, với đông đảo tu sĩ và giáo dân tham dự.

Ngài được đi an táng ở đất thánh ‘Chúa Chiên Lành’ (dành cho các cha ở Giáo Phận Xuân Lộc) ở Thái Hòa, cách Biên Hòa 10 km.

2) Ở HỌ BÚNG (1952 – 1963):

Trong 11  năm làm cha phó ở Búng (lúc này cha Keller đã 67 tuổi). Cha Tôma rất tích cực lo toan mọi việc. Có thể tóm tắt như một giáo dân đã nhận xét về cha như sau :"Cha vui tính, thích hoạt động, cha vẽ cũng khá. Cha sáng tác nhiều bài cho các vở tuồng, và một số bài thánh ca. Cha làm văn xuôi, văn vần rất hay. Cha tổ chức các lễ lớn rất trọng thể và chu đáo, đặc biệt là các cuộc rước kiệu. Các vở tuồng thời ấy thì nay khó tổ chức lại được, vì rất hao tốn và nhiều công sức’.

Cụ thể cha Tôma đã để lại tại Búng :

1. 45 bài thánh ca với bút danh Đức Hiệp. Đa số các bài hát có chủ đề về Bí Tích Thánh Thể và Đức Mẹ Maria. Các bài được sáng tác 2 bè. Có một bài tựa là ‘Hỡi đất trời ca tấu lên’ hát về tông đồ đang thịnh hành ở xứ Búng.

2. 11 vở tuồng ( dài khoảng 2 tiếng đồng hồ/mỗi tuồng) hiện nay Ông Út Vincent Nguyễn Văn Thơi đang giữ. Những vở tuồng này thường được diễn vào dịp tết, tối mùng 1 – 2 – 3 để gây quĩ, lo các cuộc rước kiệu, và các việc mục vụ khác.

+ 1954 : 2 tuồng : Giáo hội như thuyền trên sóng, Hai con đường

+ 1955 : 2 tuồng : Bánh và Đạo, Phút chia ly

+ 1956 : 2 tuồng : Thánh Alêxù, Bên nấm mồ mẹ

+ 1957 : 1 tuồng : Tổ phụ Giacốp

+ 1958 : 1 tuồng : Ba giọt máu hy sinh

+ 1959 : 1 tuồng : Vì nghĩa quên mình

+ 1960 : 1 tuồng : Tiếng phán qua bao thế hệ

+ 1961: 1 tuồng : Lời trối trên đồi Can-va

Trường học gần nhà các Dì là nơi diễn tuồng, các lớp được phân ra bằng những tấm ván, khi diễn tuồng thì dẹp ván và có một hội trường lớn. Khán giả thời đó không chỉ là người có đạo, mà cả những người lương cũng đến xem rất đông. Thời đó, cha sở Keller không cho con gái diễn tuồng chung với con trai do đó nhiều thanh niên nam rặt đã giả gái rất thành công. Nhiều xảo thuật tinh vi đã được áp dụng trong các vở tuồng, nên khán giả rất tán thưởng. Chẳng hạn cảnh quỷ bay lượn lên xuống, hỏa ngục đỏ rực, cảnh trả lại đôi mắt cho người mù từ tay thiên thần bằng cách cho đôi mắt bay từ thiên thần đến cặp mắt người mù….vô cùng hấp dẫn.

3) VỀ NHỮNG CUỘC RƯỚC KIỆU

Mỗi  năm có 3 cuộc rước kiệu trọng thể:

Lễ Mình Máu Thánh Chúa:

Giáo dân bằm cỏ rải trên đường kiệu, tô điểm bằng những hoa phượng đỏ, làm thành tấm thảm suốt đường kiệu dài, để cha sở cầm Mình Thánh Chúa đi trên đó. Ở những chỗ kiệu quan trọng, cha Tôma cho làm những động to (giống như của tam quan) bằng vải sơn vàng, khắc chữ, vẽ hình, khung bằng cây rất đẹp. Khi kiệu thì chuông trống thay phiên khắc, hòa với tiếng hát suốt cuộc rước.

Rước kiệu Đức Mẹ (Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 08/12)

Rước về đêm, nên cần đèn là chính, ở mỗi chỗ quan trọng có những cái động to (dán hình, chữ, đèn bên trong) rất rực rở. Không lần nào kiệu mà không có ít nhất 5,6 cái động như thế. Ở chỗ dừng chân thì có đài cao, trang hoàng lộng lẫy.

Rước kiệu Chúa Hài Đồng:

Cũng  như rước kiệu Đức Mẹ, ngôi sao dọc theo đường kiệu, bên trong đốt nến, khoảng vài trăm cái. Khi đi kiệu, có bắn trái sáng rất nhiều (pháo thăng thiên, hỏa châu).

Cũng nói thêm rằng:Những cuộc rước kiệu này là truyền thống có từ thời trước khi cha phó Tôma về xứ Búng.

+ Năm 1942, đời cha phó Phêrô Cầu, có cuộc rước kiệu Đức Mẹ ra khỏi nhà thờ, đi đến ngã ba Bến Bụi (đường vô lò chén Chùm Sao), rẻ trái về đường nhà bà bảy Khá (Cô của Ông hai Kỉnh, cha Đức và Cha Khâm). Đến trại của ông Trang (khu đất nhà ông sáu Trực), có một cổng chào tam quan lớn, trang trí công phu, khi bàn kiệu đến, dừng lại, một dàn pháo bông rực rở bắn lên trời, hiện hình Đức Mẹ chấp tay, 2 Thiên Thần chầu và ở dưới chân Đức Mẹ có chữ Ave Maria.

+ Đời cha Phêrô Thì (1946 – 1951) cuộc rước kiệu đã đi lên ngã ba Dốc Sỏi, vòng trái đi thẳng về chợ Búng. Tại Chợ Búng, có một đài rất lớn, lộng lẫy công phu thu hút rất nhiều người xem và thán phục. Sau đó đi đến cầu Bà Hai và quẹo về nhà thờ.

+ Ngoài ra, hằng tháng, buổi chiều chủ nhật đầu tháng lúc 3 giờ, có kiệu Đức Mẹ vòng quanh nhà thờ, sau đó chầu phép lành trọng thể.

Tóm lại, vào thời cha Keller và 9 cha phó, từ năm 1925 đến 1963, họ Búng có nhiều cái đáng nhớ. Sự cộng tác của hàng Quới chức ( Trùm, Câu, Biện) rất tích cực. Mọi tổ chức lễ lớn đều có mặt quới chức: Chỉ huy là cha phó, thực hiện là quới chức và thanh niên.Khiêng kiệu lộng Thánh Thể là quới chức (Khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, vai đeo băng quới chức). Khiêng kiệu Đức Mẹ thì do các cô trong Hội Con Đức Mẹ. Xin tiền Hội Thánh Phêrô thì do các ông trong Hội đảm trách. Chính quới chức là người giữ kẻ liệt và đưa các cha đi kẻ liệt. Tổ chức chuẩn bị kịch nghệ, rước kiệu từ vài tháng trước. Cộng tác rất tích cực, cha con luôn hồ hởi, chung nhau làm việc, chung nhau lo cho họ đạo.

4.    NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI CHA KELLER

Ngày 22/09/1960, nhân dịp kỷ niệm 50 năm linh mục (lễ vàng, Kim khánh linh mục) và 35 năm làm cha sở họ đạo Búng. Đức Giám Mục Sài Gòn là Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã đến họ đạo, cùng với khoảng 40 linh mục (các cha M.E.P cũng khá đông), nhiều tu sĩ nam nữ, các quới chức và vô số giáo dân đến nhà thờ mừng Cha Sở, lúc này Ngài đã già yếu, 75 tuổi rồi. Sau thánh lễ, tiệc mừng Ngài được tổ chức tại trường học (gần nhà Dì). Đây là những gì Thiên Chúa và giáo hữu muốn trả ơn cho cha lần cuối, bởi vì sau đó Ngài rất yếu. Trong một thánh lễ Phục Sinh lúc nữa đêm về sáng. Ngài đã ngất xỉu, và cha phó Tôma phải thay thế. Cũng  nên nhớ lại, thời đó việc giữ chay rước lễ rất ngặt, phải trước 3 tiếng đồng hồ, do đó đã già lại đau yếu, mà cha sở còn dâng Thánh lễ bằng tiếng La tinh hát trọng thể….. nên không chịu nổi.

Năm 1961, Ngài đau nhiều nên đi dưỡng bệnh ở bệnh viện Saint Paul ở Sài Gòn, lúc đó cha Delagne (MEP) cũng đang ở đó hưu dưỡng. Giáo dân thường xuyên đến đó thăm Ngài. Nhận thấy không cần săn sóc gì đặc biệt, nên giáo dân đưa Ngài về họ đạo và chăm sóc Ngài. Lúc này cha Keller đã lẫn lộn rất nhiều. Hằng ngày, Ngài thường đi lên Đất Thánh, mặc áo dòng đen trơn, chống gậy, tay cầm chuỗi và đi. Có lúc Ngài khỏe, vài ông Quới chức đề nghị Ngài xin về Pháp để tịnh dưỡng, Ngài nói: “Ở bên đó không còn ai, nếu Cha chết thì cha chết ở đây”.

Vào một sáng ngày chủ nhật, tháng 11/1961, có trận đánh bót ở trước nhà thờ, khi nghe nhiều tiếng súng nổ, cha đã ra trước hiên nhà cha sở và quát to: “Vậy mà đừng có bắn nghe không ?”

Vào tháng 5/1963, Ngài kiệt sức, giáo dân lại đưa Ngài vào bệnh viện Saint Paul ở Sài Gòn. Ngày chủ nhật 02/06/1963, cha Dozance Bề trên Miền, ban các bí tích sau hết cho Ngài. Thứ tư, Ngài được đưa trở về họ đạo Búng. Các quới chức thay nhau chăm sóc và trông coi Ngài cả ngày lẫn đêm.

Ngày thứ hai 17/061963, Ngài đã nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Tiếng chuông báo tử đã vang lên. Nỗi buồn to lớn lan khắp họ đạo. Cha sở Robert Keller sau khi đã phục vụ 38 năm tại Họ Đạo Búng đã vĩnh viễn ra đi. Giáo dân chạy đến đông nghẹt để nhìn cha sở thân yêu của mình, nước mắt ràn rụa.

Ngày thứ ba , 18/06/1963,. Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình (nhận giáo phận ngày 02/04/1961) thay cho Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, các cha Dozance, de Monjour, Remand, Troger, và nhiều linh mục Việt Nam, cùng cả Họ Đạo Búng, tham dự nghi thức tẩn liệm cha cố Keller, và di quan vào trong nhà thờ. Hai ngày trong nhà thờ mà cha suốt 38 năm đã từng dâng lễ, giảng dạy, và quì cầu nguyện mỗi trưa trước giờ cơm (đến nỗi, ghế quì của Ngài đã có hai vết lõm xuống ) với bao người đến cầu nguyện và kính viếng.

Ngày thứ năm, 20/06/1963, Thánh lễ an táng do Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình cử hành. Các cha và các thầy thuộc gốc Họ Búng đều có mặt để tiễn đưa người cha đã hướng dẫn mình đi theo ơn gọi. Các nữ tu gốc Búng rất đông đến để tiễn đưa cha già đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Thật vậy, từ nay, Cha cố Robert Keller luôn an nghỉ bên đoàn con mà cha đã từng dẫn dắt và lo toan từ việc đạo đến việc đời. Ngôi mộ của cha được đặt trước đài Thánh Quí, để con cái trong họ đạo khi đi qua lại đều biết rằng có một người Linh mục ở Pháp thuộc Hội Truyền Giáo Paris (MEP), đã ở đây phục vụ 38 năm với tất cả nhiệt tình của mục tử đối với đàn chiên họ Búng.

“Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi”(Mt25,21).

Phần mộ Cha Robert Keller – Trước đài Thánh Quí

Xem thêm: Hình các Chủng sinh Búng thời Cha sở Robert Keller

Hình các Chủng sinh chụp tại nhà thờ Búng năm 1957

Hàng sau từ trái qua: Têphanô Ri, Philipphê Binh, Phaolô Khi, Micae Khâm

Hàng trước từ trái qua: Giacôbê Báu, Tôma Khiêm, Longinô Mậu, G.B Đức

I.    CHA SỞ TẠM THỜI PHANXICÔ-X TRẦN NGỌC DƯƠNG



Sinh : 15/09/1926

Qua đời :18/03/1991 tại Tân Qui, Giáo phận Sài Gòn.

Sổ rửa tội được cha ký từ 11/02/1963 đến 17/06/1963, có 41 người.

Sổ hôn phối được cha ký từ 20/02/1963 đến 10/05/1963, có 5 đôi hôn phối

Cha phục vụ tại Búng chỉ 4 tháng, việc mục vụ đạo đức cho giáo dân là chính.




BÀI VIẾT CÙNG MỤC