LỊCH SỬ HỌ BÚNG - Patriciô Nguyễn Văn Tiền (Biên Soạn) - Lịch sử Họ Đạo Búng 11 - Thánh Phêrô Đoàn Công Quí

P. PHỤ LỤC

1.    TIỂU SỬ THÁNH QUÍ

Nếu “Máu các Thánh tử đạo là hạt giống sinh người Kitô Hữu”, thì họ Búng được kể là hạnh phúc và vinh dự vì được xây đắp bằng xương máu của bậc tiền nhân anh dũng trong đức tin, vị linh mục đầu đàn, người con cả yêu quí của họ đạo.. Thánh Linh Mục Phêrô Đoàn Công Quí, người đã đổ máu ra vì đức tin tại Châu Đốc năm 1895 nhưng họ Búng chính là nơi sinh trưởng, chi  nôi của Người.

Linh mục Phêrô Đoàn Công Quí là con ông Antôn Đoàn Công Miêng, và bà Annê Nguyễn Thị Thường, cha mẹ vốn dòng quyền quí, nguyên quán ở Đàng Ngoài, đã từng phò vua giúp nước.

Không rõ vì lý do nào (có thể vì lý do công giáo), vào cuối đời Gia Long (1802 – 1820), hai ông bà cùng vài người con di cư vào Nam , ngụ tại Búng, tỉnh Thủ Dầu Một , nay là tỉnh Bình Dương. Tên của các anh chị của Phêrô Quí là: Thới, Bường (gái) Đã, Rạng, Báu. Và chính tại đây, Phêrô Đoàn Công Quí, con út trong 6 người con, mở mắt chào đời vào năm 1826, dưới triều Minh Mạng, tại họ Búng, thuộc làng Hưng Định, tổng Bình Chánh, tỉnh Thủ Dầu Một.

Cậu Quí bản chất thông minh, được cha mẹ cho học chữ nghĩa, hấp thụ nền Nho học và sống trong một gia đình lễ giáo. Từ lâu cậu Quí muốn hiến thân cho  Chúa để làm linh mục, giúp việc tông đồ. Nhưng cha mẹ thấy cậu út thông minh, có bề thế sau này, nên để cậu ở lại giữ nghiệp tông đường, và để cho anh của cậu đi tu. Tuy nhiên, “Nhân nguyện như thử như thử, thiên lý vị nhiên vị nhiên”nghĩa là người ta muốn thế này mà ý trời lại định ý khác. Vì vậy,sau khi anh của cậu xin rút lui hoàn tục, thì cha mẹ lại cho cậu đi tu như ý định ban đầu. Cậu bỏ hết để đến ở với Cha Tám, bổn sở họ Búng, để tập đời sống tu trì. Năm 1847, cậu được cha Tám giới thiệu với với cha bề trên Gioan Mịche, sau này là Giám Mục. Năm đầu học La Tinh tại nhà bề trên, năm sau cậu được gửi vào học chủng viện Thánh Giuse, lúc ấy đặt tại Thị Nghè, do cha Borelle (Hòa) làm bề trên, sau đó ít lâu, vào năm 1848, Thầy Quí được gửi đi du học tại Đại Chủng viện Pinăng (Mã Lai). Sau 7 năm học tập và tu luyện, thầy trở về quê hương năm 1855, lúc ấy vua Tự Đức đang cấm đạo gắt gao.

Đức cha Lefèbre (Ngãi) thoạt đầu dặn thầy phải tạm ẩn náu qua ngày, nhưng sau lại sai Thầy đi săn sóc, dạy dỗ, an ủi giáo dân các họ. Nhận thấy thầy có đủ điều kiện về học thức, đạo đức và tinh thần tông đồ, năm 29 tuổi, Đức cha cho Thầy chịu chức cắt tóc, và hai năm sau chịu chức Phó tế. Vào tháng 9/1858, Đức Cha truyền chức Linh Mục cho Thầy tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Là con cái trong Họ, cha Phêrô Quí sau đó đã về Búng để “vinh qui bái tổ”. Nói là vinh qui chứ thực ra thánh lễ được cử hành kín đáo, đơn sơ tại Gò Cầy (Bây giờ là cuối đường lò chén Chùm Sao vô vài trăm mét). Cha Phêrô Quí còn nán lại nhà ông Trùm Tín (là cháu của ông Bình và là con của ông Định) thì có tin báo về Cai tổng ở Lái Thiêu là ông Tín chứa chấp cố đạo. Ở Lái Thiêu có một viên thư ký quen than với gia đình ông Tín, khi nghe câu chuyện liền lấy ngựa chạy ngày đến nhà ông Tín, vừa hốt thuốc cho mẹ vừa báo tin. Chiều hôm đó, một chiếc ghe xuôi đường rạch cầu Cây Trâm, đi ra phía vàm Búng và hướng thẳng về Bà Lụa. Khi đi dọc theo bờ rạch, có người nhìn thấy và hỏi thì ông Chư (con cả ông Tín) vừa chèo ghe, vừa trả lời “Anh này (chỉ cha Phêrô Quí) quen ở Bà Lụa, rủ tôi lên đó để gát Cuốc”….Thế mới biết, bắt đầu bước lên bàn thờ tế lễ, là bắt đầu bước chân lên đồi Cal-vê, bắt đầu cuộc tử đạo. Sau Lái Thiêu, Gia Định, Biên Hòa, cha Quí được cử làm phó sở Cái Mơn. Vừa đến nhậm sở được ba tháng thì xảy ra vụ quân linh đến vây dòng Mến Thánh Giá, để lùng bắt giáo sĩ, nhưng không tìm được giáo sĩ, họ bắt mấy nữ tu.

Không sợ nguy hiểm, cha Quí định ra mặt với quan quân, để chuộc mạng cho các nữ tu, nhưng giáo hữu không để người ra.

Sau đó Đức cha cử người đến họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng , Tỉnh An Giang ngày 27/12/1858, thì mười ngày sau 07/01/1859, quan Tổng đốc An Giang được mật báo có Tây Dương đạo trưởng trú ẩn tại nhà ông Emmanuel Lê Văn Phụng, lúc ấy là Câu phủ họ (tức Trùm họ) Đầu Nước. liền sai 100 lính đến bao vây. Được tin làng bị lính bao vây,Cố Pernot nói với cha Quí hãy đi trốn để thoát lưới quân thù, Cha quí lại bảo Cố trốn đi, còn cha nhất định không nao núng sợ hãi chi cả, Ngài cho mình không có dấu chỉ gì để quan biết mình là linh mục.

Quan vào nhà ông Emmanuel Phụng, truyền cho ông phải nộp Tây dương đạo trưởng. Ông Trùm Phụng trả lời ở đây không có Tây dương đạo trưởng trú ẩn. Quan quat lớn lên:

- Đạo trưởng ở đâu?

Cha Quí đứng gần đó trả lời:

- Tôi là Đạo Trưởng

Quan hồ nghi:

- Không phải mày, mày phải tìm nộp cho chúng tao Tây dương đạo trưởng mới được.

Cha đáp:

- Không có Tây dương đạo trưởng nào ở đây cả, Tôi chính là Đạo Trưởng, tôi sung sướng làm việc giảng đạo , ai muốn nghe đạo tôi sẵn sàng chỉ dạy.

Quan thấy cha Quí còn trẻ, không có vẽ gì là đạo trưởng, không tin lời của Cha khai là thật. Quan mới quay ra hỏi đứa nhỏ khoảng 10 tuổi, là cháu nội của ông Trùm Phụng, xem đạo trưởng là ai

Đứa nhỏ chỉ vào cha Quí:

- Chính ông này là đạo trưởng.

Quan  hết hồ nghi, liền truyền lệnh bắt trói cha Quí, và bắt luôn ông Trùm Phụng cùng 32 bổn đạo trong làng, rồi xiềng xích bắt về Châu Đốc. Hôm ấy là ngày mồng 07 tháng Giêng năm 1859.

Đến Châu Đốc, Ngài bị dẫn đến trước mặt quan Tổng đốc, quan thẩm vấn cha nhiều điều và hứa sẽ tha nếu cha bỏ đạo, theo như chiếu chỉ của nhà vua, nhưng cha Quí vẫn kiên quyết nhận mình là đạo trưởng và quyết không từ bỏ đạo.

Lần khác quan nói với cha, “Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo, hãy nghe ta mà bỏ đạo đó đi”

Cha Quí trả lời:

- Dạ, thưa quan, tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dạy điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu.

Quan liền sai giam cha vào ngục và sau đó dung nhiều phương kế đe nạt, dụ dỗ, tra tấn hòng làm thay đổi lập trường của cha, nhưng cha vẫn một lòng trung kiên với chính đạo. Sau cùng, quan thảo bản án trảm quyết gửi về kinh đô. bảy tháng trong ngục, cha Quí động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện ngắm và đọc kinh Mân Côi với họ. Một giáo hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản quốc cải trang để vào giải tội và cho cha rước  Thánh Thể.

từ trong ngục thất, Ngài gửi về cho mẹ (thân phụ qua đời) một bức thư bằng văn vận, ý từ cao sâu, lời lẽ cảm động

 

THƯ Ở NGỤC ĐƯỜNG

 

Ký vụ thân mẫu đôi chữ tường tri

Kể từ ngày con vâng lệnh ra đi

Lòng lã chã lệ rơi luồng lụy

Ngỡ tới đây hành công biện sự

Một hai tháng về viếng từ than

Ai ngờ rầy sớm cách lìa phân

Trời cùng nước không hề vầy hiệp

Hễ Đạo làm tôi đua giữ lời răn dạy

Cho nên con vâng lệnh chỉ sai

Đàng xa xôi cách trở chi nài

Miễn đặng tiếng vâng lời chịu lụy.

 

Sau khi tỏ tình nhớ mẹ, cha kể chuyện mình:

 

Kính thưa má,

Khi con tới An Giang tạm nghỉ

Gặp chầu trời mở hội khoa thi

Nên con phải liều thân ứng cử

Ấy là Thiên Chúa chi sở nhiên

Nhân tất tùng chi, nhi dĩ hỉ.


Dầu trăng trói gông cùm tù rạc

Chốn ngục hình xiềng tỏa chi nề

Miễn vui lòng cam chịu một bề

Cho trọn đạo trung thành hiếu tử

 

Chí con dốc đền công ơn Chúa

Dạ con làm báo ngãi mẹ cha

Xin mẫu từ chớ chút phiền hà

Một vui chịu cho danh cha cả sang.

 

Mẹ ở lại lần hồi ngày tháng,

Việc hôm mai cần cán giữ gìn,

Gắng công phu việc Chúa kính tin,

Hằng khắc kỷ dẹp yên ba giặc….

Nẻo tam cừu thìn mình chớ mắc,

Giữ mười răn cẩn mật đừng sai,

Dẫu đời này ly biệt bao nài,

Sau ắt cùng một nhà vầy hiệp. 

Ngày 30 tháng 07 năm 1859, án lệnh của triều đình được gửi từ kinh đô tới Châu Đốc

Sang hôm sau là ngày 31/07/1859, ngày thi hành án lệnh, hai cha con, Phêrô Quí và ông Trùm Phụng, mặc áo tốt nhất, ung dung và đĩnh đạc đi đến pháp trường, có quan quân đi trước, giáo hữu đi sau. Một tên lính vác thẻ, lâu lâu lại cất tiếng rao:

“Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, Kỷ Vị niên, thất nguyệt, sơ nhị nhật. Thẻ: Đạo trưởng Đoàn Công Quí tùng gian đạo, đạo chủng; Đạo thư; bất khẳng quá khóa; Vi phạm quốc pháp;luật hình trảm quyết. Tư thẻ”

Quả thật đây là án lệnh của vị tuẫn đạo. Khi tới xóm Chà Và gần cầu cây Mét là chỗ pháp trường, hai cha con cùng quì xuống cầu nguyện, cha ban phép giải tội cho con, con từ giã cha, giáo hữu đến bái biệt hai vị bước vào cõi phước. Bỗng ba tiếng chiêng vang lên giữa đồng vắng, một hồi trống giục, rồi ba lát gươm trao, lát thứ nhất rồi lát thứ hai hết nữa cổ, lát thứ ba gần đứt hết, lát thứ tư đứt hẳn, một chiếc đầu rơi. Linh hồn cha Phêrô Quí bay về cõi cao xanh, có ông Trumg Phụng đi liền theo sau trong giây lát. Hôm ấy là ngày 31/07/1859, cha Quí vừa tròn 33 tuổi.

Thi hài của Ngài  an táng ở nhà thờ Năng Gù, sau được cải táng đem về chủng viện Cù Lao Giêng 1959, nhân dịp Bách chu niên cuộc tử đạo của Ngài.

Đức Thánh Cha Piô X đã phong Ngài lên bậc Á Thánh vào ngày mùng 02 tháng 05 năm 1909. để tưởng nhớ và kỷ niệm công đức của Ngài, một tượng đài uy nghi được xây dựng trước nhà thờ Búng, nơi chon nhau cắt rốn của vị Thánh

Và ngày 19/06/1988 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.

Dòng họ Thánh Quí tiếp tục dâng hiến cho Cho Giáo hội nhiều vị linh mục: quí cha Đoàn Công Triệu (1936), Đoàn Quang Đạt (1956), Đoàn Thanh Xuân (1945), và nhiều tông đồ giáo dân nhiệt thành.

Theo sổ rửa tội còn lưu tại Búng, gia đình thuộc họ Đoàn Công được kể ra như sau:

Ông Raymond Đoàn Công Huy và bà Anê Nguyễn Thị Nhiệm đã sinh ra:

1.   Tôma Đoàn Công Tửu, 03/05/1877, xã Bình Sơn, Tổng Bình Chánh, rửa tội ngày 06/05/1877 do cha Võ.

2.   Phaolô Đoàn Công Luông, 04/10/1878, xã Bình Sơn, tổng Bình Chánh, rửa tội ngày 06/05/1878, do cha Võ.

3.   Phaolô Đoàn Công Tần, rửa tôi ngày 17/01/1888, do cha Giuse Thơ.

4.   G.B Đoàn Công Chiêu, rửa tội ngày 12/09/1891, do cha Giuse Thơ

5.   Anrê Đoàn Văn Quan, rửa tội 02/01/1894, do cha Simon

6.   Đoàn Công Triều, rửa tội 22/09/1896

7.   Phêrô Đoàn Công Hội, sinh 13/10/1885, rửa tội 15/10/1885, do cha Antôn Võ.

CẦN LƯU Ý:      QUÍ HAY QUÝ ?

Ø Tài liệu của linh mục Pernot từng sống với vị Thánh, và sau này kể lại ở Paris , luôn ghi “le prêtre QUI” “P.QUI”

Ø Trong tờ xin làm gia phả đầy đủ của vị Thánh, ông Đoàn công Tần cháu đời thứ 4 của vị Thánh, ghi : Tông chi than tộc Á Thánh Đoàn Công Quí” (31/07/1967).

Ø Trong bản ghi nguồn gốc họ Búng, cha Martin (MEP)ngày 10/02/1911, cũng ghi “ Le Bienheureux Pierre QUÍ (trang 2 và trang 10).

Ø Khi xây dựng tượng đài Thánh tại họ Búng, Ông Đoàn Công Chánh, ghi tại chân đế “ Thánh Phê rô Đoàn Công Quí” và ngày 17/02/1960, Đức Cố Giám Mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã khánh thành tượng đài này.

Ø Quyển “Hạnh tích các đấng Chân Phước tử đạo” các vị có hài cốt chôn tại bàn thờ chánh Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn xuất bản 1960, trang 42 viết về “ Chân Phước Phêrô Đoàn Công Quí”.

Ø Trong sách “ Thánh Giáo Yếu Lý” vấn đáp, năm 1953, do nhà xuất bản Tân Định in lần thứ 11, trang 102, “ Những điều vinh hạnh đặc biệt của địa phận Sài Gòn” có viết.

Ø Ngày 27/05/1900, Đức Giáo Tông Lêô XIII phong lên bậc Á Thánh: Cha Joseph Marchand (Cố Du), Cha Philipphê Minh, Ông Matthêu Gẫm.

Ø Ngày 02/05/1909, Đức Giáo Tông Piô X phong lên bậc Á Thánh : Cha Phêrô QUÍ, Ông Trùm Emmanuel Phụng, cha Phaolô Lộc, cha Phêrô Lựu, ông Trùm Giuse Lựu và Phaolô Hạnh.

Ø Tóm lại: “QUÍ” là đúng tên của Thánh Nhân (không phải là QUÝ)

 

BỔ TÚC TIỂU SỬ THÁNH QUÍ

 

Ø Linh  mục JEAN-CLAUDE PERNOT (Xem tài liệu của MEP)

Ø Sinh ngày: 17/11/1823

Ø Cha là Claude Francois, làm nghề thợ may.

Ø Mẹ là: Anne Pinaigre, nội trợ

Ø Mùa thu 1839 (15 tuổi) vào tiểu chủng viện Luxeuil.

Ø Năm 1841, vào học Triết ở chủng viện Vesoul

Ø Năm 1843, học thần học ở Besancon

Ø Ngày 18/09/1847 (lúc 24 tuổi), thụ phong linh mục.

Ø Ngày 03/09/1851 (28 tuổi) vào Hội Truyền Giáo Paris.

Ø Ngày 04/09/1852 đi Viễn Đông từ cảng Havre

Ø Ngày 26/10/1852 đến Pinăng ( Malaysia )

Ø ĐGM Lefèbvre Ngãi thuê tàu chở Cha đến nước Việt. Hơn 1 tháng thì đến Đồng Nai. Sau đó đi thuyền đến Thị Nghè.

Ø 1853 – 1854 : Ở Thị Nghè

Sau đó, được sai đến Đầu Nước ở Cù Lao Giêng. Cha Pernot ở tại nhà của ông Emmanuel Lê Văn Phụng. Họ Đầu Nước được thành lập năm 1783 do 2 gia đình Cai Thia ?- Ông Phụng với tính năng hăng say và nhiệt thành tông đồ, dạy giáo dân, nâng đỡ họ, cố gắng giúp họ về đạo giáo, dù gặp nguy hại, nhất là khi họ đau ốm và sắp chết. Cha Pernot  ở đây cho tới 1859.

Cha ở trong một nhà nhỏ, nấp trong góc kín của ngôi nhà. Ban  ngày phải ẩn mình, cha chỉ đi ra ban đêm. Ở đó cha cử hành các Bí Tích cho giáo dân mà ông Phụng kín đáo đưa đến. Ban ngày đôi khi Cha phải im lặng và ở yên vì các người lương do thám đến lục soát phía bên kia vách nhà của Ngài. Nhiều  lần cha phải lật đật chạy trốn trong chỗ rậm gần đó, chân ở trong đầm nước và muỗi căn khủng khiếp. Khi nguy hiểm qua rồi, người ta đến tìm cha về.

Dù rất cẩn thận, nhưng họ cũng nghi ngờ có người Âu. Hai người lương ở làng Tân Đức ở Cù Lao Giêng, quyết tâm bắt quả tang. Một đêm nọ, họ trèo lên cây măng sau nhà ông Phụng, và cha Pernot, không biết có nguy hiểm đã đi ra để thở không khí trong lành. Ngay lập tức họ nhận ra Ngài. Họ đi tố cáo với Tổng Đốc Châu Đốc. Ông gọi trưởng đội dân quân, ra lệnh chuẩn bị khoảng 20 chiếc thuyền để đến Cù Lao Giêng. Nhưng người ta biết ngay lý do có cuộc sắp đặt đó và một giáo dân vội vàng báo tin cho ông Phụng. Ông Phụng lúc đầu không tin lời người này, ông nói: “Không thể có chuyện đó, ông Huyện Cù Lao Giêng rất tốt với tôi, đáng lẽ nói cho tôi biết chứ”. Tuy  nhiên, các chiếc thuyền dân quân đã đến chọ Cho Thu (?), cách Đầu Nước 6 km. Rồi thuyền chạy chậm để đến đêm thì đến nhà ông Phụng, được báo là cất giấu một người Tây.

Việc xuất hiện đội thuyền làm cho giáo dân trong lang xôn xao. Một giáo dân đến nhà ông Phụng. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì có tiếng mái chèo đập nước nghe rất rõ. Vội vàng, hối hả người ta cất giấu đồ đạc gây nghi ngờ, và che giấu cha Pernot. Dưới sự hướng dẫn của ông Gabrie Vi, cha chạy trốn trong rừng rậm và cũng khuyên cha Quí trốn đi nhưng vị linh mục bản xứ trả lời: “Cha ơi, cha trốn nhanh đi, còn con, con là người An nam, con sẽ không gặp khó khăn gì đâu”. Sau một lúc, quân lính bao vây nhà ông Phụng, và siết chặt vòng vây để không ai có thể chạy thoát. Họ tìm kiếm khắp nơi, lục soát các góc xó nhà tăm tối, nhưng vô ích, tuyệt đối không tìm thấy gì cả. Cha Pernot đã đi kịp lúc, các đồ lễ cũng rời xa đó rồi. Ông trưởng đội quân giận dữ, bắt giữ ông Phung, chủ nhà, muốn ông thú nhận là ông có che giấu một nhà truyền giáo. Nhưng ông Phụng từ chối nói ra và không chỉ bảo gì cả. Giận điên tiết, ông trưởng đội quân ra lệnh bắt trói và đóng gông Cha P.Quí, ông E. Phụng và 32 bổn đạo ở đó. Rồi dẫn họ về phủ Châu Đốc. Đó là ngày 07/01/1859. Vài tháng sau đó, Cha Quí và ông Phụng bị kết án tử và hành hình. Cha Quí bị chặt đầu, ông Phụng bị siết cổ. Ngày 13/02/1879 (20 năm sau) hai vị tử đạo này được ĐGH Lêô XIII phong Chân Phước.

Còn Cha Pernot lúc đó thế nào?. Suốt đêm, Ngài trốn núp trong rừng. Sáng hôm sau, Ngài trở lại họ Đầu Nước, và tạm trú ở nhà một giáo dân khác. Các bề trên nhận thấy cần đưa cha đi khỏi Họ đó, nên vị thừa sai buộc phải trốn ở đáy thuyền và băng qua song, đến với các giáo dân ở Ben Dinh (?) cách đó 25 cây số. Các giáo dân ở đây quá sợ hãi nên từ chối cho cha ở. Có một phụ nữ can đảm, bà Anna Thoa, nói với chồng: “Đừng sợ gì cả, chúng ta cứ cho cha ở nhà chúng ta”. Lúc đầu người chồng không đồng ý, nhưng sau cùng với sự nài nỉ của bà vợ, ông đồng ý và don một cái chòi nhỏ ở trong bụi tre gần nhà, bà Anna hằng ngày mang cơm nước đến cho cha. Ở đó chỉ được ba ngày, Tổng Đốc Châu Đốc không muốn bỏ lơi con mồi nên ra lệnh lục xét khắp nơi. Quan quân đến gần Bến Dinh rồi. Còn thời gian nên phải cứu vị thừa sai thôi. Đầu óc dân An nam đầy mưu mẹo. Họ lấy một chiếc ghe chất đủ thứ lá: Tranh lợp nhà, rơm làm vách, lá dừa làm cửa….Chiếc ghe chở người buôn lá trong một thời gian ngắn đã xuôi dòng nước. Vị thừa sai Pernot đã ngòi trongmột cái lỗ mà người ta bao quanh bằng đủ thứ lá. Lên bờ, đi đường bộ đến chợ gần đó, rồi đến chợ kế tiếp, sau cùng cha đến Cái Nhum. Giáo dân ở đấy rất tốt, người lương xung quanh cũng tốt  và có thiện cảm. Họ đạo có dòng Mến Thánh Giá và có một tiểu chủng viện của truyền giáo.

- Đầu năm 1860, ở Sài Gòn.

- Năm 1861, về chủng viện Hội Truyền Giáo ở Paris .

- Ngày 27/02/1904, qua đời ở Paris , thọ 81 tuổi.

 


BÀI VIẾT CÙNG MỤC