Về giáo lý, Cha Martin nêu rõ :
‘Nói
chung các cô gái theo học giáo lý khá tốt. Còn thanh niên thì bỏ học
giáo lý từ khi lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức xong, khoảng 12 người sẵn sàng
tham dự. Một số bà con cũng đến dự lớp giáo lý này, các ông thì rất ít.
Các chức việc có khoảng 20 người, nhưng mới có 3 hay 4 người điều khiển đọc kinh tối’.
‘Giáo
dân không có địa vị cao, cũng không có tài sản lớn nên gây ảnh hưởng ít
đến lương dân ở quanh họ (phải nói lòng nhiệt thành nung đốt họ thì
không sốt nóng cho lắm), nhưng người lương gần bên họ từ lâu đã biết đến
đạo giáo của ta, nếu họ không theo đạo, chính vì họ không muốn trở lại’
‘Giáo
dân ít đi tìm các trẻ em ngoại đạo sắp chết, nhưng khi họ có dịp gặp
chúng, thì họ sẵn sàng cưu mang chúng. Nếu trẻ qua bú mẹ, thì họ sẵn
sàng nhận nuôi, nhưng nếu trẻ còn bú mẹ thì họ gửi chúng đến cô nhi viện
ở Lái Thiêu. Khi họ nhận nuôi thì nói chung họ chăm sóc và đối xử chúng
như con ruột của họ"(năm 1910, Cô nhi viện ở Lái Thiêu được thành lập
do cha sở Ernest Verney đến năm 1954 thì chuyển các em cho Cô nhi viện
Gò Vấp. Xem lịch sử nhà thờ Lái Thiêu, trang 21).
Cha Martin báo cáo như sau :
+ Bà Trà : có 90 giáo dân, không có trường học
+ Bình Sơn : Có một trường hỗn hợp (nam, nữ học chung) do một Thầy đã có gia đình đứng lớp. Tiền lương cho Thầy do các gia đình góp lại.
+ Búng :
Có hai trường : một dành cho nam và một dành cho nữ. Trường nam do một
Thầy cựu chủng sinh dạy. Ngoài giáo lý, còn dạy học, viết và bốn phép
tính. Tuy nhiên, không đạt kết quả nhiều vì còn một số con em bị lôi đến
trường, ngoài ra cha mẹ chúng không thúc giục chúng đi học và không
muốn cho chúng thức ăn giáo khoa. Trường nữ do một ông Biện đồng nhi
dạy. Cũng những môn học như trường nam, nhưng ít dạy cho viết và làm
tính.
Khi
việc truyền giáo được chính phủ trợ cấp, thì các em nữ được các Dì Thủ
Thiêm dạy. Khi không còn trợ cấp, tôi (cha Martin) bắt buộc phải đi tìm
thầy dạy trong giáo dân. Nhiều lần tôi nói với các chức việc để mời các
dì đến dạy, nhưng tôi luôn nhận được câu trả lời này: “Bẩm cha, chúng tôi nghèo”.
Để lập khoản tiền lương của các giáo viên, thì phải đóng góp nhưng cũng
không đủ để trả lương hoàn toàn, cho dù tiền lương của một cô giáo thật
tiết kiệm chỉ có 60 đồng. Có một năm, tôi phải gánh phí tổn này (năm
1902, chính phủ Pháp hủy bỏ trợ cấp hằng năm về trường học cho các nhà
truyền giáo ở Việt Nam . Xem tiểu sử ĐGM Lucien Emile Mossard)
Sau năm 1975, chính quyền trưng thu hai trường học trên, để lập thành trường Tiểu học, trung học.
Đến nay (2007) hai trường này được sửa chữa như sau:
+ Tháng
12/2006 trường nữ được sửa thành hội trường của họ đạo, hình thức hai
mái, ngói móc, 2 hành lang trước sau vẫn còn, còn dàn cây chịu nóc vẫn
còn tốt.
+ Trường
nam (sau đài Thánh Quí) trước đó chỉ có hai căn phòng, mái ngói móc như
trường nữ. Sau 1975, nhà nước dạy tiểu học và đập bỏ nó để xây các
phòng hiện đại hơn. Hiện nay (2007), vào mỗi chủ nhật các lớp Giáo Lý
Vào Đời học ở đây.
3. NHỮNG GHI NHẬN VỀ CHA SỞ MARTIN :
Suốt
đời cha giữ sự hăng say và tính ổn định của một chủng sinh. Cha lo việc
mục vụ một cách trung thành và được mọi người kính trọng….Tiết kiệm
trong những việc nhỏ, nhưng trái tim Cha bao la quảng đại đối với những
việc lớn lao.
Đức Giám Mục Mossard trong báo cáo năm 1916 có nhắc đến cha Martin như sau: “Cha
Martin dường như còn phải sống lâu dài nhưng đã bỏ chúng tôi vì cơn
bệnh bất ngờ, chỉ kéo dài 3 hay 4 ngày.” “Đầu tháng 8/1916, Cha đi Sài
Gòn để chữa bệnh đau ngực (angine), mong hết bệnh trở về Họ Đạo Búng sau
một vài ngày trị bệnh, nhưng bệnh tiến quá nhanh, 2 ngày sau khi nhập
viện của bác sĩ Angier, cha qua đời đột ngột ngày 08/08/1916, sau khi đã
lãnh các bí tích sau cùng.”
4. CÁC CHA PHÓ TRONG THỜI CHA SỞ MARTIN :
Trong
thời Cha Martin phục vụ tại họ Búng, có một cha phó giúp Ngài. Đó là
cha Giuse Quận. Trong khi ở Búng. Ngài đã cho diễn tuồng “Cố Du tử
đạo”(Cố Du sinh 1803, đến Lái Thiêu 1830, có đến Búng). Cha Phó Quận
dựng lầu chuông bằng cây ở bên đài Thánh Quí bây giờ. Cha qui tụ thanh
niên Hưng Định và An Thạnh để giúp việc nặng nhọc này.
Một Cha Phó khác: Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Phuông
- Sinh 1861 ở Mỹ Tho
- Linh mục 1897 (lúc 36 tuổi)
- Qua đời 1919 (hưởng dương 56 tuổi)
- Dạy giáo lý rước lễ lần đầu cho ông Nguyễn Thới Linh năm 1911.
5. CÁC DÌ TRONG THỜI CHA MARTIN
Năm
1915. Cha Martin (Nghi) xin các Dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm về giúp họ
đạo. Bề trên là dì Maria Nguyễn Thị Hiếm gửi 2 dì trong hội dòng đến
Búng là:
+ Dì Maria Huỳnh Thị Lai.
G. CHA SỞ THỨ BẢY: CHA ANRÊ NGUYỄN VĂN MIỀU (1916 – 1925)
1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ:
Sinh 1863 tại Gia Định, chịu chức linh mục năm 1893, phục vụ tại Búng 1916 – 1925. Ngài được phong chức linh mục năm 30 tuổi. Có rất ít tài liệu về Ngài, lúc 53 tuổi Ngài được bổ nhiệm làm cha sở họ Búng
2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ
Trong
suốt 9 năm tại Búng, Ngài đã làm nhiệm vụ của một chủ chăn nhiệt thành.
Đến 63 tuổi Ngài được đổi đi. Năm 1928, lúc Ngài đã 65 tuổi, Đức Giám
Mục Dumortier đã ghi lại như sau:
“Việc
mục vụ 1927 – 1928 khởi đầu bằng việc đặt một linh mục An-nam ở Côn
Đảo, nhà tù lớn nhất Đông Dương. Ngày 01/09, linh mục De Coopman, người
đã lo việc mục vụ này vừa là cha xứ nhà thờ chánh tòa Sài Gòn, cùng với
linh mục Anrê Miều, đáp tàu đến Côn Đảo, để giới thiệu người mục vụ mới
với Giám Đốc trại tù, và xin phép để cha có thể chăm lo cho những tù
nhân. Côn Đảo ở giữa biển, mất 15 tiếng đồng hồ đi tàu từ Sài Gòn ra đó,
và chỉ liên lạc với Miền Nam 3 lần mỗi tháng…..Trong số 2000 tù nhân,
gồm người An-nam, Cambốt, Trung Hoa, thì chỉ có khoảng 100 người công
giáo, nhưng rất nhiều công giáo trong số nhân viên dân sự và quân sự để
canh gác hay phục vụ nhà tù; Ngoài ra còn hy vọng đưa vào đạo công giáo
một số tù người lương dân, thiếu thốn sự an ủi. Cha Anrê Miều đã có 50
tân tòng. Chính quyền đã cho phép cha viếng thăm các trại tù mỗi chúa
nhật, và kêu gọi tù nhân sống đạo đức. Mỗi ngày cha có thể tự do thăm
các bệnh nhân ở các bệnh xá và cha đã rửa tội ở đó 5 người lớn sắp qua
đời.”
Như
vậy, với con số giáo dân trên 1500 đời cha Martin, thì trong 9 năm ở
Búng, cha Anrê Miều một mình phải lo toan về mặt mục vụ cũng khá vất
vả….Theo sổ rửa tội còn lưu tại họ đạo Búng, cha đã rửa tội:
Cha Anrê Miều ký sổ Rửa Tội từ 18/09/1916 đến 27/02/1925.
Các dì Mến Thánh Gía Thủ Thiêm luân phiên đến Búng trong thời gian cha Anrê là 34 dì.
Xem thêm: Hình các Chủng sinh thời Cha Anrê Miều
Họp mặt tại nhà thầy sở (Phòng) ngày 28 tết (28/12/Nhâm Tuất). Máy chụp hình của Thầy Phòng.
Hàng đứng từ trái qua: Truyền (Cha Phaolô Truyền), Kinh, Khâm (Đức Cha Khâm), Cân, Thường.
Hàng ngồi: Năng (Cha Phêrô Năng), Phòng
-
Thầy Cân ( Cháu của Cha Anrê Diên, anh của ông 9 Hiển): Từ chủng viện
Peanang về nhưng không được chịu chức vì Ông học Thôi miên, làm giáo sư
Anh văn ở Sài Gòn, một trong số rất ít trước thời kỳ 1940.
-
Thầy Phòng (Chú của cha Philipphê Binh): Bốn chức ở chủng viện Sài Gòn,
một trong số các ơn kêu gọi đầu tiên của Dòng Xitô Phước Sơn, nhưng ông
sớm qua đời tại đó vì bệnh rét rừng.